Tâm Lý Người Việt Nam Nhìn Từ Nhiều Góc Độ book. Read reviews from world's largest community for readers.
Do đó nhiếp ảnh phải có lý luận riêng, việc bình giá ảnh nghệ thuật phải có - Nhiếp ảnh Việt Nam nhìn từ góc độ lý luận phê bình Chủ tịch Hội NSNAVN Chu Chí Thành, Phó CT Vũ. đánh giá nghệ thuật nhiếp ảnh thì không tránh khỏi lệch lạc, phiến diện.
Từ góc độ lý luận triết học cũng như thực tế của cuộc sống và trong nhiều trường hợp cho thấy thất bại không có nghĩa là kết thúc, là dấu chấm hết mà chỉ có thể xem nó như một bước lùi tạm thời trong xu hướng chung của sự phát triển. Cho nên, thất bại, tự bản thân nó, cũng có ý nghĩa và giá trị nhất định.
Kinh tế Việt Nam từ góc nhìn quốc tế đến phân tích của chuyên gia trong nước Ngân hàng Phát triển châu Á điều chỉnh giảm mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số nền kinh tế lớn so với sự báo hồi tháng 4, ví dụ điều chỉnh dự báo GDP Hoa Kỳ giảm từ 3,9%
Một số giải pháp phòng, chống bạo lực giới trong gia đình Việt Nam hiện nay 2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và xây dựng gia đình văn hoá. 2.2.2. Nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và các trung tâm tư vấn về phòng, chống bạo lực giới
Vay Tiền Nhanh. Khi một người bạn của tôi tâm sự với bố mẹ rằng anh ấy đang bị trầm cảm, họ cho rằng anh bị vậy là do “không chịu ra ngoài nhiều”. Đối với họ, trầm cảm dường như là một thứ gì đó do bản thân người bệnh tự gây ra và cũng có thể tự vượt qua được, miễn là người bệnh đừng quá yếu đuối và nhạy suy nghĩ như trên về bệnh tâm lý không phải là hiếm gặp. Cho đến những năm gần đây, sức khỏe tâm lý vẫn là một chủ đề khó nói và chứa đựng nhiều thành kiến tại Việt Nam. Điều này càng gây khó khăn hơn cho người bệnh trong việc giãi bày và tìm kiếm sự trợ giúp khi cần khỏe tâm thần quan trọng là thế, nhưng tại sao nó lại không được coi trọng tại Việt Nam? Dưới đây là 3 nguyên nhân chính cho vấn đề Văn hóa cộng đồngKhác với các nước phương Tây, Việt Nam có một lối sống cộng đồng đặc trưng lợi ích của tập thể gia đình, họ hàng, xã hội… luôn được ưu tiên hàng đầu. Điều này không hẳn là có hại, vì nó giúp ích cho sự phát triển và lợi ích chung của một tập nhiên, lối sống ấy cũng khiến cho các nhu cầu cá nhân bị xem nhẹ và bỏ qua. Với những người mắc bệnh tâm lý, lối sống cộng đồng càng khiến cho họ khó nói lên khó khăn của mình, vì lo ngại rằng sẽ bị cho là ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản ra, lối sống này cũng khiến cho người ta quan tâm quá mức tới những gì người khác nghĩ về mình. Đôi khi, những gia đình có thành viên bị mắc các chứng rối loạn tâm lý không đưa họ đi thăm khám kịp thời, chỉ vì lo ngại hàng xóm và bạn bè sẽ biết gia đình có người “mắc bệnh tâm thần”. Với lối sống cộng đồng luôn ưu tiên lợi ích tập thể, những người mắc bệnh tâm lý càng khó nói lên khó khăn của báo cáo của UNICEF có đề cập “Nói đến tâm thần là người ta cũng thường có ý mỉa mai, khinh ghét hoặc là muốn chối bỏ. Gia đình nào có người bệnh tâm thần cũng cảm thấy bị ám ảnh chuyện đó. Nếu bị bệnh nào khác người ta có thể chia sẻ với người ngoài như tôi bị đau bao tử, còn bị trầm cảm lo âu, tâm thần là giấu. Có khi đi khám bệnh nhưng cũng giấu người này người kia”.Chúng ta không nhất thiết phải chối bỏ lối sống cộng đồng, vì đây đã trở thành một nét văn hóa riêng của người Việt nói riêng và châu Á nói chung. Tuy nhiên, chúng ta nên tạo điều kiện để mỗi cá nhân có thể bày tỏ suy nghĩ, mong muốn của riêng mình nhiều được, bạn hãy cố gắng lắng nghe một cách không phán xét những người mắc bệnh tâm lý, động viên họ có thể nói ra những khó khăn của mình. Vì suy cho cùng, chỉ khi những nhu cầu cá nhân được đáp ứng thì mọi người mới có thể yên tâm đóng góp và cống hiến cho xã Cách dạy con “thương cho roi cho vọt”Hẳn là người Việt nào cũng đã từng nghe đến câu “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Câu thành ngữ này đại diện cho một hệ tư tưởng giáo dục điển hình tại Việt Nam việc đánh mắng con cái là bình thường thậm chí cần thiết. Ngược lại, khen ngợi và đối xử nhẹ nhàng với trẻ nhỏ được xem là nuông chiều và là một phương pháp giáo dục kém hiệu này khiến cho con cái luôn gặp khó khăn trong việc thổ lộ những tâm tư, suy nghĩ của bản thân với cha mẹ. Đặc biệt là đối với những người mắc các chứng rối loạn tâm lý, vì họ là đối tượng cần nhiều sự thấu hiểu và hỗ trợ về mặt cảm xúc từ người thân. Tư tưởng giáo dục “thương cho roi cho vọt” khiến con trẻ e ngại việc thổ lộ tâm tư, suy nghĩ của bản thân với cha nhiên, đây cũng không hẳn là lỗi của ba mẹ. Tư tưởng trên đã khắc sâu vào lối sống người Việt, khiến cho việc thay đổi không thể diễn ra một sớm một chiều. Vì vậy, nếu là một người mắc các rối loạn tâm lý, bạn có thể sử dụng cách “mưa dầm thấm lâu” để khiến ba mẹ dần hiểu hơn về tình trạng của ngày, bạn có thể đề cập một chút những kiến thức về sức khỏe tâm lý cho họ. Bạn cũng có thể nhờ đến sự giúp đỡ từ bạn bè hoặc bất kỳ người thân nào đã hiểu và ủng hộ bạn. Ngoài ra, việc tìm kiếm sự trợ giúp từ bác sĩ tâm lý cũng là một cách tốt. Các chuyên gia tâm lý sẽ có chuyên môn và nghiệp vụ riêng, giúp bạn và gia đình dễ dàng mở lòng với nhau Sức khỏe tâm thần vẫn còn là một lĩnh vực mớiSo với các ngành khác, tâm lý học vẫn là một ngành khoa học còn non trẻ. Đa số các nghiên cứu đột phá trong ngành mới chỉ được thực hiện trong vòng 150 năm trở lại đây. Tại Việt Nam, tâm lý và tâm thần học cũng là một lĩnh vực còn mới và chưa được biết đến rộng rãi. Ngành tâm thần học ở nước ta cũng được cho là chưa đáp ứng được nhu cầu về mặt nhân lực và cơ sở hạ tầng trong việc điều trị các bệnh tâm vậy, đa số người dân Việt Nam vẫn còn biết rất ít các thông tin về tâm lý và tâm thần học. Từ đó, họ dễ dàng có những thành kiến về những người mắc bệnh tâm lý, cho rằng họ đều là “người điên”. Ngành tâm thần học của Việt Nam vẫn còn non trẻ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu về mặt nhân lực và cơ sở hạ tầng. Đa số người dân Việt Nam vẫn còn biết rất ít các thông tin về tâm lý và tâm thần thực tế, tương tự như những căn bệnh về thể chất, các rối loạn tâm thần rất đa dạng. Không phải ai mắc bệnh tâm thần đều là “người điên” hay có xu hướng bạo lực. Chỉ khoảng 3-5% số vụ bạo lực là có liên quan đến những người mắc bệnh tâm lý nghiêm khi đó, họ lại có khả năng trở thành nạn nhân của các vụ bạo lực cao gấp 10 lần so với thông thường. Những người có vấn đề về tâm lý cũng được cho là có thái độ tốt, năng suất và quãng thời gian làm việc tại công ty bằng hoặc cao hơn so với những nhân viên với sự phát triển của đất nước, ngành tâm lý – tâm thần học tại Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng được cải thiện và nâng cao. Trong lúc đó, mỗi bản thân chúng ta có thể tự trang bị thêm những kiến thức đúng đắn về sức khỏe tâm thần. Điều này không chỉ giúp ích cho việc thấu những người mắc bệnh tâm lý hơn, mà còn hỗ trợ bản thân trong việc phòng ngừa các vấn đề về sức khỏe tâm lý thông viết được thực hiện bởi Sơn ảnh được thực hiện bởi Trà thêm[Bài viết] Rối loạn lưỡng cực không chỉ là vui buồn thất thường![Bài viết] Trầm cảm theo mùa là gì? Vì sao thời tiết khiến cảm xúc rối loạn?
Nếu không tiện đọc bài viết, bạn có thể nghe bản audio tại đâyTừ khi được dịch và ra mắt chính thức tại Việt Nam, cuốn sách “Tâm lý học dân tộc An Nam” đã gây ra không ít những cuộc tranh luận, bao gồm cả những ý kiến chỉ trích gay gắt, không phải vì Paul Giran chỉ ra những đặc điểm thấp kém của người An Nam, mà vì ông đã đặt dân tộc An Nam dưới lăng kính của chế độ thực dân đi “khai hóa văn minh”.Hàng cháo rong ở Sài từ trước khi người Pháp thuộc địa hóa xứ An Nam qua việc chiếm cứ các vùng đất, mở rộng kinh doanh, lập ra các đồn điền và chinh phục dân bản xứ để thực hiện các thiết đặt chế độ thực dân, các giáo sĩ phương Tây đã bỏ nhiều công sức để miêu tả chi tiết hình ảnh dân tộc An Nam. Trong đó có thể kể đến một số cuốn sách mới được xuất bản gần đây là Xứ Đàng Trong năm 1621 by Cristoforo Borri hay cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” của vị toàn quyền nổi tiếng Paul Doumer. Mục đích của những cuốn sách này là gì? Đó là tạo ra một cái nhìn rõ ràng hơn về xứ sở mà họ và những người khác đang tiếp tục làm công việc khai hóa văn minh và với các giáo sĩ là truyền giáo cho các dân tộc bản kết thúc thắng lợi của người Pháp, toàn bộ lãnh thổ An Nam đã được thiết lập bộ máy cai trị, từ đó nhu cầu về vấn đề hiểu rõ người dân bản xứ được đặt lên hàng đầu, một mặt được tuyên bố như những nguyên tắc nghiên cứu khách quan vượt ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia cụ thể, mặc khác đó có thể coi như các thực hành khoa học nhằm cai trị những con người thấp kém hơn mà những tài nguyên, nguồn lực và lãnh thổ của họ đặt dưới trách nhiệm của người Pháp. Các thiết đặt của người Pháp từ đó trở về sau được hợp thức hóa, không phải với tư cách là người Pháp với người bản xứ, mà là với chính họ. Năm 1875, tại hội nghị quốc tế lần thứ hai về khoa học địa lí, có sự tham gia của Tổng thống Cộng hòa Pháp, Thống đốc Paris, Chủ tịch Quốc hội Pháp,... bài phát biểu của Le Noury đã bộc lộ thái độ hợp lý hóa các cuộc chinh phục của người Pháp “Thưa quý vị, Thượng Đế đã ra lệnh cho chúng ta phải gánh lấy bổn phận tìm hiểu Trái Đất và thực hiện một cuộc chinh phục nó. Mệnh lệnh tối cao này là một trong những nhiệm vụ cấp thiết được khắc sâu trong trí tuệ và hành động của chúng ta. Địa lí, môn khoa học truyền cảm hứng cho lòng tận tụy cao đẹp và nhân danh nó có quá nhiều nạn nhân đã hi sinh, đã trở thành môn triết học về Trái Đất.” 1 Có thể thấy phát biểu của Le Noury đại diện cho nhiều người, bao gồm cả toàn bộ dân tộc Pháp qua đại từ “chúng ta”, và đó là sứ mệnh vĩ đại không thể chối bỏ được ban ra từ một vị trí bất khả xâm phạm là Đấng tối đã hợp thức hóa sứ mệnh chinh phục và cai trị, những nghiên cứu của Paul Giran cũng không xa rời hệ thống các mục đích và và quan niệm đó. Ông không phải là người đầu tiên viết về dân tộc An Nam, nhưng là người đầu tiên áp dụng các lý thuyết về nhân chủng học một cách có hệ thống để mô tả tâm lý người An Nam. Với vai trò là một vị quan cai quản thuộc địa cho Pháp, để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, ông cho rằng nếu muốn “cai trị tốt một dân tộc, trước tiên phải học hỏi và tìm hiểu, phải biết rõ, phải thấu đáo tâm hồn, thần minh của họ.” Ông đã viết cuốn sách “Tâm lý dân tộc An Nam đặc điểm quốc gia; sự tiến hóa lịch sử, trí tuệ, xã hội, chính trị” nhằm thấu hiểu đời sống người An Nam. Cuốn sách được chia ra làm hai phần, phần đầu khái quát về tâm lý dân tộc An Nam qua các giả thuyết về nguồn gốc chủng tộc, điều kiện khí hậu và môi trường sống, phần thứ hai đi sâu vào phân tích tiến hóa về mặt nhận thức và trí tuệ của dân tộc An Nam trong suốt chiều dài lịch sử, sự phát triển ngôn ngữ, thương mại, nghệ thuật, giáo dục, chính trị – xã hội...Bắt đầu với đặc điểm quốc gia, Paul Giran đi vào mô tả nguồn gốc chủng tộc người An Nam, một đại diện của chủng tộc da vàng, với giả thuyết cho rằng nhóm người Việt đầu tiên thuộc nhánh “Indo-Mongoles” Cổ Mã Lai-Mông Cổ với nhiều đặc điểm giống với người Mông Cổ có hộp sọ ngắn, để phân biệt rõ với người Hán phía Bắc là nhóm đầu dài, và nét đặc trưng lớn nhất là “xương gò má rộng và cao, khiến cho khuôn mặt trông giống hình thoi hơn hình bầu dục” 2. Ông mô tả rằng người An Nam thuộc dạng thấp, chiều cao trung bình là 1m60 ở nam và 1m50 ở nữ. Đặc biệt hơn, đó là ông đã quan sát rất kĩ và nhận thấy bàn chân của người An Nam có ngón cái chìa ra ngoài và coi đó là một đặc điểm nhân chủng, nhưng đáng tiếc đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Thực chất bàn chân có ngón cái chìa ra và cách xa các ngón khác như vậy là vì dân An Nam phần lớn là đi chân đất, do lao động và mang vác vật nặng nhiều trên các địa hình trơn trượt hoặc gồ ghề nên tổ chức xương bàn chân bị sụp. Kiểu biến dạng đó có thể thấy ở nhiều khu vực khác trên thế giới chứ không phải đặc điểm của riêng dân Giao tiết bàn chân Giao vào chi tiết hơn, Paul Giran so sánh người An Nam với dân tộc khác là người Hán—đế quốc đã cai trị và cố tìm cách đồng hóa người Giao Chỉ qua hơn mười thế kỷ. Dựa theo những suy luận là người dân Bắc kỳ một phần nào đó “vui vẻ, ồn ào, đôi khi dí dỏm” mang tính chất Quảng Đông nhưng do điều kiện địa lý cách xa trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ, đất nước An Nam đã được bảo vệ theo một cách nào đó bởi vùng đệm văn hóa Lưỡng Quảng bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và không bị đồng hóa một cách triệt Giran còn đưa ra sự đồng thuận với quan điểm của một người nghiên cứu về An Nam khác là Jean Baptiste Luro, đó là người Giao Chỉ sống ở điều kiện bán nguyên thủy, tại một xứ sở “bao phủ bởi rừng rậm dày đặc”, “cái nóng mùa hè sinh bệnh dịch nguy hại… Truyền thuyết của người An Nam về thời cổ đại có nói rõ rằng người Giao [Chỉ] mê tín, họ có đền thờ, họ cúng súc vật để hiến tế cho những thần linh bất tử đại diện cho sức mạnh thiên nhiên…” 3 Jean Baptiste Éliacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont, Le pays d’Annam.,“những điều người ta ghi nhận ở tất cả những dân tộc sơ khai, vào buổi bình minh của các nền văn minh”Lại một lần nữa, chúng ta phải xem xét đến cái nhìn của một người phương Tây về con người An Nam. Để giải thích cho vấn đề này, cần phải truy ngược lại về nguồn gốc của người Pháp là dân tộc Gauiois. Hầu hết người dân ở xứ sở này sống theo kiểu chăn thả du mục, họ lùa đàn gia súc đi từ nơi này đến nơi khác để kiếm vùng đồng cỏ tươi tốt hơn, không định cư lâu dài ở một nơi. Những nền văn minh phương Tây Hy-La cổ đại, Thiên chúa giáo trung đại, Tư bản chủ nghĩa cận đại đều coi thiên-tự nhiên là thù địch, do vậy cần phải chinh phục, thống trị và khai thác. Ngược lại, người An Nam với xuất thân từ nền văn minh lúa nước với đặc điểm là phải cố định một chỗ để chờ thu hoạch, lao động đồng ruộng cần nhiều nhân lực nên dễ tụ họp thành quần thể làng xã. Hơn thế nữa, việc trồng trọt phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và đặc biệt là thời tiết, thế nên việc tôn thờ các vị thần đại diện cho sức mạnh thiên nhiên như Tản Viên sơn thánh, hệ thống chùa Tứ Pháp… hoàn toàn không phải mê tín như Luro đã sau đó, Paul Giran đi vào phân tích tính cách dân tộc An Nam dựa theo hai yếu tố được ông coi là nguyên nhân thể chất sinh lý và sự thích ứng của dân tộc đó với các môi trường khác nhau. Bằng biểu hiện thời tiết bao gồm mùa khô từ tháng Mười một đến tháng Ba và mùa mưa từ tháng Tư đến tháng Mười, độ ẩm cao, nóng nực và ẩm thấp quá mức chịu đựng của người Pháp, ông đã kết luận một cách đầy mơ hồ rằng ở một quốc gia văn minh như nước Pháp, khí hậu được cân bằng bởi các ảnh hưởng xã hội, còn ở một dân tộc mới bắt đầu tiến hóa, khí hậu tham gia vào việc định hình khí chất chung. Cụ thể là những người—giống như Hippocrate ghi lại—có tính khí cáu kỉnh, mệt mỏi do nóng nực; vì ẩm ướt làm giảm cảm giác tinh thần, thiếu sức sống và năng lượng nên dửng dưng, bình thản và thờ xét về vấn đề phân biệt chủng tộc theo hệ quy chiếu của thời đại ngày nay, có lẽ phần mô tả của Giran về nhà ở của người An Nam đều là những lí lẽ mang màu sắc thiếu thiện cảm. Ông viết “Về phương diện nhà cửa nói chung, rất dễ nhận ra sự đơn sơ thể hiện ở nội thất bên trong; chỉ có một hoặc hai chiếc phản lớn,... vừa là bàn ăn, là ghế lại vừa là giường… và một chiếc quan tài ở vị trí trang trọng, do những đứa con hiếu thảo tặng cho người một sự bẩn thỉu gớm ghiếc nữa, đó là những con lợn hoặc gia cầm được thả rông, hoàn toàn tự do; một cái ao gần đó và cũng là hồ bơi, là nơi trồng cải xoong lẫn hố ủ phân… và bạn sẽ có một bức tranh gần chính xác về sự tiện nghi của người An Nam.”Về phần tâm hồn, Giran cho rằng dân tộc An Nam thiếu đi hoàn toàn khả năng đồng cảm với nỗi đau hay sự thống khổ của người khác. Bằng chứng là dân chúng vẫn sử dụng các hình phạt xử tử mang tính chất ghê rợn tăng dần theo từng bậc thắt cổ, chém đầu, voi giày và lăng trì. Và tất cả lý giải mà ông có thể đưa ra đó là do khí hậu nóng ẩm khắc nghiệt và chế độ ăn uống nghèo nàn của người An thế mà dân tộc An Nam được hưởng một “đặc ân” vô giá tính khí hài hòa. Mặc dù về cả phương diện thể chất và tinh thần đều không đạt đỉnh cao, nhưng tất cả đều hợp nhất ở một mức đặc biệt thấp “máu huyết lưu thông chậm, thần kinh kiệt quệ và cơ bắp không còn chút sức bật nào.”Điều này khiến cho người An Nam có khả năng nhẫn nhục chịu đựng, khúm núm, không có ý định phản kháng – một đức tính cần thiết để người Pháp có thể thiết lập chế độ thuộc địa mà không hề có phản ứng gì, còn những cuộc nổi dậy chống lại sự xâm lược của kẻ khổng lồ Trung Hoa chỉ là đợt bộc phát mang tính bốc đồng của tuổi trẻ hơn là cuộc cách mạng trưởng thành và kiên gì Paul Giran nhận xét về khả năng tư duy của người An Nam có nhiều nét tương đồng với nhận xét của Huân tước Cromer4 Evelyn Baring, Huân tước thứ Nhất xứ Cromer, quản trị thuộc địa Ai Cập của chính phủ Anh Quốc. về người phương Đông cả tin, thiếu nghị lực và sáng kiến, quen thói nịnh bợ quá mức, mưu mô xảo quyệt, độc ác với súc vật. Người phương Đông không thể đi trên đường cái hoặc vỉa hè đầu óc lộn xộn của họ không thể hiểu được điều mà người châu Âu khôn ngoan hiểu được ngay đường và vỉa hè được làm ra để người ta đi bộ. Người phương Đông hay nói dối, họ thường “”lờ đờ uể oải và hay nghi ngờ”...5 Evelyn Barin, Huân tước Cromer, Ai Cập hiện đại 1908.Về phần kỹ nghệ, thương mại và nông nghiệp, ông nhận xét rằng “nghề đi biển còn ở mức phôi thai”, “thợ thủ công kém tinh xảo”, gần như không xuất hiện kỹ nghệ và thương mại của người An Nam bản địa, ngoại thương không tồn tại cho đến khi “người Pháp thành lập chế độ bảo hộ, điều kiện kinh tế của đất nước đã thay đổi đáng kể và với họ người An Nam là điều kiện sống cư dân.” Và ông cũng khẳng định rằng việc tạo ra các ngành kỹ nghệ địa phương và thương mại sẽ là cơ sở để cải thiện đạo đức. Dưới con mắt của một vị quan cai trị thuộc địa, chắc chắn Giran khó có thể vượt qua được việc xếp dân tộc An Nam vào chủng loại thấp kém hơn, và những điều mà các xứ sở thực dân đang làm đều là tốt cho những dân tộc đang bị lệ thuộc vào điểm của việc đóng khung tư tưởng phân biệt chủng tộc của Paul Giran là ông cho rằng việc cải thiện trí tuệ hay tư duy của người dân An Nam là chuyện hoàn toàn vô ích. Ông viết “Trong tổ chức não bộ của các chủng tộc, có những giới hạn không thể vượt qua.” Theo Giran, việc cai trị thuộc địa của người Pháp tại An Nam có được thuận buồm xuôi gió hay không phụ thuộc vào việc giữ vững tính toàn vẹn của tổ chức xã hội, luật pháp và cả bộ máy hành chính. Ở An Nam, khái niệm dân chủ không tồn tại, thay vào đó các vị quan người Pháp cần phải thực hiện “sự cai trị đúng mực nhất”, cũng như không cần phải dạy người An Nam cách tư duy, ngôn ngữ của người Pháp, cho họ bộ luật của nước Pháp; nhưng nên cải thiện đất nước này bằng cách tạo ra các kênh đào và các tuyến đường sắt, làm màu mỡ đất cuốn sách được viết ra dưới góc nhìn của người thực dân đi chinh phục thuộc địa, nước Pháp nhân danh thần thánh của họ và “khai hóa văn minh”, họ tự cho mình quyền thống trị các dân tộc khác và đưa ra những biện hộ rất cao cả cho chế độ thuộc địa của họ. Hãy thử nhìn lại một lần, liệu rằng ngay trong cuốn sách này của Giran, liệu rằng có một sự ghi nhận nào về tiếng nói của người dân An Nam, hay đó chỉ là những nhận xét hoàn toàn dựa trên lăng kính của chế độ thực dân và chủ nghĩa bá quyền? Tuy vậy, “Tâm lý dân tộc An Nam” là một cuốn sách ngắn, khá cô đọng, trình bày có logic, lớp lang rõ ràng và là một bằng chứng cho việc người Pháp đã bỏ công sức tìm hiểu về đặc điểm của người An Nam qua lịch sử, nhân chủng, giải phẫu, văn hóa – xã hội… Đây có thể là nguồn tài liệu tham khảo, góp phần chỉ ra sự khác biệt giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây.***Chú thích1 Edward Wadie Said, Văn hóa và chủ nghĩa bá quyền, tr. 364. Phạm Anh Tuấn, An Khánh dịch.2 Eugène Cortambert và Léon de Rosny, Tableau de la Conchinchine.3 Jean Baptiste Éliacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont, Le pays d’Annam.4 Evelyn Baring, Huân tước Cromer, quản trị thuộc địa Ai Cập của chính phủ Anh Quốc.5 Evelyn Barin, Huân tước Cromer, Ai Cập hiện đại 1908.
Các hướng nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam Phạm Thu Trang* Tóm tắt Nghiên cứu về nhân cách đã được phân tích với các mức độ, phạm vi, mục đích khác nhau và từ nhiều góc độ như tâm lý học, xã hội học, đạo đức học, luật học, Trên thế giới vào những năm 1970-1980, nhiều trào lưu nghiên cứu về nhân cách trong tâm lý học đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Ở nước ta, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam ban đầu chủ yếu được thể hiện trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về con người Việt Nam qua các tác phẩm của Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên cùng nhiều nhà khoa học khác, về sau, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam đã được chú ý nhiều từ giới tâm lý học. Hiện nay, theo chúng tôi, nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam không chỉ được đề cập đến qua tâm lý học mà còn từ nhiều góc độ nghiên cứu khác như đạo đức học, văn học và văn hóa học, liên ngành khoa học xã hội, triết học. Từ khóa Nhân cách, Nghiên cứu về nhân cách, Nhân cách con người Việt Nam, Tâm lý học nhân cách 1. Các nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học Hiện nay,*trong nghiên cứu, nhân cách trước hết và chủ yếu vẫn là đối tượng của tâm lý học. Trong tâm lý học có riêng phân ngành là tâm lý học nhân cách đi sâu nghiên cứu đối tượng này. Theo đó, các quan điểm, lý thuyết về nhân cách cùng với những vấn đề của nó như khái niệm, cấu trúc, quá trình hình thành và phát triển cũng chủ yếu được xem xét từ góc độ của các nghiên cứu tâm lý học. Nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam dưới góc độ tâm lý học chủ yếu tập trung vào các nội dung nghiên cứu sau * ThS., Viện Thông tin thutrang84_triet KHXH; Email Thứ nhất, tập trung vào đối tượng nhân cách cụ thể như nhân cách người Hà Nội, nhân cách nhà kinh doanh giỏi, nhân cách người cán bộ, sĩ quan, nhân cách Hồ Chí Minh, nhân cách của hội thẩm nhân dân, nhân cách người cán bộ quân đội, nhân cách người lãnh đạo, quản lý, nhân cách người cán bộ khoa học, nhân cách kiểm toán viên nhà nước... Các nghiên cứu thuộc loại này thường làm rõ các đặc điểm, phẩm chất quan trọng, chủ yếu thuộc về nhân cách của các đối tượng được đề cập đến như bản lĩnh là phẩm chất cốt lõi của người cán bộ quân đội, nhân tố đức và tài của người lãnh đạo quản lý, các chỉ số hay các mặt cần thiết về trình độ trí tuệ, về kiến thức, kỹ năng, 2 về sức khỏe thể chất, về động cơ, thái độ của một nhà kinh doanh giỏi,... Phạm Tất Dong, 2010; Đỗ Long, 2004; Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2011; Trần Trọng Thủy, 2004; Lê Hữu Xanh, 2006.... Thứ hai, cũng đề cập đến đối tượng nhân cách cụ thể, nhưng là những đối tượng khá đặc thù nên có không ít nghiên cứu đề cập đến nhân cách của học sinh, sinh viên Việt Nam với những phân tích về thực trạng, nguyên nhân của sự phát triển nhân cách của đối tượng này, trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng, biện pháp giáo dục nhằm hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh, sinh viên Việt Nam. Các nghiên cứu theo hướng này chủ yếu quan tâm đến các vấn đề sự hình thành và phát triển của hệ thống động cơ học tập, lao động, chọn nghề, giao tiếp, động cơ thành đạt…; khả năng tự đánh giá; sự định hướng giá trị chung và định hướng giá trị trong các hoạt động khác nhau; thái độ trước những vấn đề xã hội khác nhau cũng như đối với những hoạt động khác nhau; tinh thần trách nhiệm; hứng thú; khả năng thích ứng xã hội Nguyễn Thị Mai Lan, 2010; Phạm Thị Minh, 2005; Phạm Huy Thành, 2012. Thứ ba, tập trung vào những yếu tố, những phẩm chất tâm lý quan trọng, tích cực thuộc về nhân cách thông qua các biện pháp tác động tâm lý - giáo dục, đó là các vấn đề như hình thành động cơ nhân cách của hoạt động học tập; hình thành thái độ tích cực đối với học tập và đối với các vấn đề xã hội hiện nay; hình thành khả năng tự đánh giá và đánh giá khách quan, phù hợp; giáo dục tinh thần trách nhiệm, giáo dục hình thành kỹ năng sống; giáo dục hình thành khả năng sáng tạo, giáo dục tài năng, nhân tài,... Trần Anh Châu, 2008; Nguyễn Văn Huyên, 1995; Lê Hương, 2003; Phạm Thành Nghị, 2008.... Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số Thứ tư, nghiên cứu về những nhân cách bệnh lý, nhân cách phát triển lệch lạc, nhân cách đang trong quá trình suy thoái, phát hiện nguyên nhân sâu xa của sự lệch lạc để trên cơ sở đó có những biện pháp ngăn ngừa, trị liệu, giáo dục, tư vấn nhằm góp phần tạo ra một xã hội với những con người phát triển lành mạnh, hài hòa cả về thể chất lẫn tâm lý. Thuộc hướng nghiên cứu này, những vấn đề đã được làm rõ là đặc điểm nhân cách của người nghiện ma túy; đặc điểm nhân cách của gái mại dâm; ảnh hưởng của nhóm bạn tiêu cực đến những hành vi lệch chuẩn, hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên; những rối loạn hành vi và những dấu hiệu của chúng Phan Thị Mai Hương, 2005; Đỗ Long, 2000; Hồ Hữu Nhựt, 2004…. Cuối cùng là các nghiên cứu định lượng, lượng hóa các yếu tố nhân cách, theo hướng này các công trình đã Việt hóa hoặc bước đầu thích ứng một số phương pháp chuẩn hóa đo đạc, đánh giá nhân cách như thích ứng Test sáng tạo; Test đánh giá kỹ năng xã hội; Test định hướng giá trị nhân cách; Test đánh giá các mặt nhân cách của Cattell 16 PF; Test phóng chiếu TAT; NEO PI-R Đào Thị Oanh, 2007; Phạm Minh Hạc, 2007…. Như vậy, những nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam dưới góc độ của tâm lý học chủ yếu hướng tới tiếp cận những đối tượng nhân cách cụ thể, với những biện pháp tâm lý - giáo dục, với việc điều tra, lượng hóa các yếu tố và phẩm chất cụ thể của các đối tượng nhân cách đó Xem thêm Đào Thị Oanh, 2007 14-16. Bên cạnh đó, đề cập đến vai trò của các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam như Vai trò của gia đình, của văn hóa gia đình Lê Thi, 1997; Lê Như Hoa, 2001, vai trò của nhà trường Hoàng Đức Nhuận, 1996, vai trò của pháp luật CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ Nguyễn Đình Đặng Lục, 2005, vai trò của yếu tố văn hóa thẩm mỹ Lê Thị Thùy Dung, 2013; Lương Thị Quỳnh Khuê, 1995..., các nghiên cứu đều đi đến khẳng định, quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam là quá trình phức tạp. Trong quá trình đó, mỗi yếu tố đều có một vị trí, vai trò và ảnh hưởng không giống nhau, các yếu tố luôn biến đổi tùy thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của từng người cụ thể. Xác định, đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng yếu tố để có những biện pháp giáo dục và tác động phù hợp giúp cho nhân cách con người Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện và tốt đẹp hơn, hướng tới những giá trị cao đẹp nhất, là một việc làm quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay. 2. Các nghiên cứu dưới góc độ đạo đức học Đạo đức học xem xét nhân cách chủ yếu ở khía cạnh đạo đức cũng như vai trò và ảnh hưởng của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành nhân cách. Trong lý luận nhân cách, đạo đức là gốc của nhân cách nhưng chưa nói lên đầy đủ, toàn bộ nhân cách. Cho nên không thể đồng nhất đạo đức vẫn thường được quan niệm là phẩm chất với nhân cách. Nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam dưới góc độ đạo đức học chủ yếu là các luận án tiến sĩ triết học tập trung nhấn mạnh đến giáo dục đạo đức hoặc vai trò của giáo dục đạo đức trong điều kiện hiện nay đối với sự hình thành của nhân cách con người Việt Nam. Trần Sỹ Phán trong Luận án tiến sĩ Triết học Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho rằng, triết học Marx-Lenin xem xét nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ thể, tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của 3 quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác Trần Sỹ Phán, 1999 19. Đây là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu sự hình thành và phát triển nhân cách dưới góc độ cụ thể - đó là vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Cũng đề cập đến Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, luận án tiến sĩ của Lê Thị Thủy 2000 lại khẳng định, vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay là tiêu chí và là nền tảng của nhân cách, góp phần tạo dựng nhân cách phát triển hài hòa, toàn diện, theo xu hướng nhân văn. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay để nâng cao vai trò của đạo đức cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kinh tế-xã hội, giáo dục và văn hóa tinh thần. Trong đó, việc giữ vững định hướng chính trị trong phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, đẩy mạnh hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng, tận dụng lợi thế của văn hóa, đặc biệt là văn hóa nghệ thuật với những tác động biểu cảm và tinh tế của nó tới tâm hồn con người là những giải pháp thiết thực và chủ yếu. Tác giả Nguyễn Văn Phúc 1996 trong bài viết Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường đã phân tích một số biểu hiện tác động của cơ chế thị trường lên nhân cách và khẳng định rằng, giáo dục đạo đức sẽ góp phần lấy lại sự thống nhất, đảm bảo sự phát triển hài hòa cho nhân cách, “nó là một nhân tố tất yếu và quan trọng của chiến lược con người trong bối cảnh thị trường hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tuy nhiên, theo tác giả, giáo dục đạo đức chỉ 4 có thể phát huy tác dụng khi nó được kết hợp với các giải pháp ngoài đạo đức là các giải pháp kinh tế-xã hội. Một cơ chế thị trường hoàn thiện được pháp chế hóa, sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những giải pháp phát triển lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm cơ sở... sẽ là cơ sở kinh tế-xã hội cho sự phát triển nhân cách. Là một trong số không nhiều công trình trực tiếp khẳng định việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống có vai trò không nhỏ trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ của Cao Thu Hằng 2011 cho rằng, ở Việt Nam hiện nay, việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách là một tất yếu và để các giá trị đạo đức truyền thống phát huy được tác dụng tích cực đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam, cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống, phát huy vai trò của pháp luật và cùng với đó là nâng cao tính tích cực của nhân dân trong việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống. Các giải pháp này có sự thống nhất và tác động qua lại lẫn nhau và đó là sự đảm bảo cho việc phát triển nhân cách con người Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của xã hội hiện nay. 3. Các nghiên cứu từ góc độ văn học và văn hóa học Những nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam từ góc độ văn học và văn hóa học chủ yếu đề cập đến việc xác định “mô hình nhân cách con người Việt Nam” như là những mẫu người tiêu biểu đại diện cho các giá trị văn hóa - lịch sử, là sự khái quát những giá trị, đặc trưng nổi bật của con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo đó, từ góc độ này, theo Hồ Liên 2008, các học giả chủ yếu định hình những mẫu người đó theo những chân dung văn học hay mô hình nhân cách của Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số một lớp người hay những nhân vật lịch sử có thật. Theo đó, từ góc độ nghiên cứu văn chương, Trương Tửu đề xuất mẫu hình của cặp “nhà nho tài tử” và “nhà nho quân tử”. Trần Đình Hượu đã xây dựng lý thuyết khảo sát “con người chức năng”, mẫu người “nhà nho tài tử”. Trần Ngọc Vương phác thảo mẫu người “Hoàng đế”. Dưới góc độ văn hóa học, Trần Quốc Vượng viết về những danh nhân tiêu biểu trong các giai đoạn văn hóa như Lý Nhân Tông thời nhà Lý, nhà giáo Chu Văn An ở giai đoạn nhà Trần, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Thánh Tông ở thời kỳ Hậu Lê, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở giai đoạn cuối Lê đầu Nguyễn… Phan Ngọc viết về những nhân cách tiêu biểu của con người Việt Nam, trong đó có Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh… Cũng tiếp cận nhân cách con người Việt Nam từ góc độ văn hóa học, Đỗ Lai Thúy trình bày các “mẫu người văn hóa” để khái quát về “văn hóa Việt Nam” thể hiện trong tác phẩm Văn hóa Việt Nam Nhìn từ mẫu người văn hóa. Ông quan niệm rằng, “mẫu người văn hóa là khái niệm trừu tượng, có ý nghĩa khái quát về những lớp người có diện mạo tinh thần giống nhau, được hình thành trong khoảng thời gian lịch sử mà ở đó văn hóa bộc lộ những tính chất giống nhau, một khí hậu văn hóa giống nhau”. Và mẫu người văn hóa của các thời đại văn hóa cụ thể được Đỗ Lai Thúy gọi bằng “con người làng xã, con người vô ngã, con người quân tử, con người tài tử, con người cá nhân”. “…Con người làng xã làm nên căn cước của con người Việt Nam, quyết định bản sắc của văn hóa cổ truyền Việt Nam. Là phần lõi, là cơ tầng của văn hóa Việt Nam” Đỗ Lai Thúy, 2005 131. Sau con người làng xã, mẫu người văn hóa đại diện cho tinh thần dân tộc CŸc hướng nghi˚n cứu về nhŽn cŸch§ phát triển đến đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong thời đại Lý - Trần là “con người vô ngã”. Đó là những con người kiệt xuất, những nhân cách lớn, những trí thức phóng khoáng có trình độ tư duy cao, những anh hùng chống giặc ngoại xâm… Họ đa dạng về nhân cách, về cá tính, về hành trạng, nhưng có một điểm chung tạo thành mẫu người tiêu biểu của thời đại, đó là đem cái tiểu ngã cá nhân, gia đình, làng xã hòa vào cái đại ngã dân tộc, ý thức về Tổ quốc là thiêng liêng, là trên hết. Sang đến thời kỳ mới, “con người quân tử” là kết quả của sự kết hợp giữa tinh thần dân tộc Đại Việt với sự khúc xạ tư tưởng Nho gia Trung Hoa, sự kết hợp giữa con người chức năng với con người cộng đồng mà chủ nghĩa yêu nước là nét cơ bản tạo nên diện mạo tinh thần của nó. Khi lịch sử Việt Nam chuyển sang bước ngoặt mới, những con người mới được hình thành trong cuộc chiến đấu lâu dài giành độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Mẫu người đại diện cho thời kỳ này là người anh hùng, người chiến sĩ, là “Anh lính cụ Hồ” và hiện thân tiêu biểu nhất của nhân cách văn hóa này chính là Hồ Chí Minh. 4. Các nghiên cứu từ góc độ liên ngành khoa học xã hội Nhân cách với những yếu tố và thành phần trong cấu trúc của nó vừa được tâm lý học nghiên cứu nhưng đồng thời cũng được đo đạc bằng các chỉ số và các phương pháp thực nghiệm theo các phương pháp của xã hội học. Với thế mạnh là định lượng được bằng các chỉ số rõ ràng hiện nay, các công trình nghiên cứu, nhất là các đề tài cấp nhà nước về vấn đề nhân cách, đã chủ yếu áp dụng các phương pháp liên ngành tâm lý học, xã hội học để nghiên cứu nhân cách của từng nhóm đối tượng cụ thể như sinh viên, học 5 sinh, công nhân,... từ đó có những kết luận chung cho nhân cách con người Việt Nam. Những công trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp nhà nước về nhân cách con người Việt Nam đã được thực hiện có thể kể đến là Chương trình Chương trình Về các chương trình này xem thêm bài viết của Vũ Thị Minh Chi in trong cuốn sách do Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc chủ biên, 2004. Trong đó, đáng chú ý là đề tài thuộc chương trình khoa học cấp nhà nước đã áp dụng phương pháp đo đạc tâm lý NEO PIR có sửa chữa và bổ sung cho phù hợp với thực tế Việt Nam để điều tra, đo đạc những đặc điểm giá trị nhân cách của một số tầng lớp người Việt Nam hiện nay thể hiện qua cuốn sách Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên do Phạm Minh Hạc chủ biên 2007. Công trình này mô tả kết quả đo đạc điều tra nhân cách của một khối lượng lớn số mẫu đại diện cho các tầng lớp người Việt Nam học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, giáo viên, trí thức, doanh nhân và một số điển hình thành đạt đã tạo cơ sở rút ra những nhận định chung về mặt mạnh, mặt yếu của người Việt Nam hiện nay. Sử dụng phương pháp định lượng mới nhất trên thế giới NEO PI-R để đo đạc nhân cách con người Việt Nam, như chính tác giả khẳng định, có nhiều ưu thế nhất định nhưng vẫn không tránh khỏi “một số điểm bất cập về mặt phương pháp tiếp cận và triển khai nghiên cứu” bởi “có nhiều khía cạnh và chiều sâu của hiện thực mà hệ phương pháp định lượng không thể đáp ứng” Phạm Minh Hạc, 2007 54. Hơn nữa, theo tác giả việc cung cấp một bức tranh toàn diện và sâu sắc về bối cảnh hình thành nhân cách, đặc biệt là nhân cách của các nhóm xã hội khác nhau, chỉ ra những quá trình phức tạp và vô
1 Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ thể loại - Chuyên ngành Văn học Việt Nam - Mã số 62. 22. 34. 01 - Họ và tên nghiên cứu sinh Lê Thị Hương Thủy - Họ và tên người hướng dẫn 1. Nguyễn Đăng Điệp 2. Tôn Phương Lan - Cơ sở đào tạo Học viện Khoa học Xã hội 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thể loại truyện ngắn có lịch sử lâu dài. Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nhà văn thành danh với truyện ngắn. Cùng với thời gian, đội ngũ những người viết truyện ngắn ngày càng đông đảo, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới với một số lượng ấn phẩm phong phú trong đó nhiều cây bút đã tạo được dấu ấn phong cách. Truyện ngắn là thể loại luôn vận động và biến đổi. Ở Việt Nam, cùng với quá trình hiện đại hóa văn học, thể loại truyện ngắn đã có những chuyển biến rõ rệt, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới truyện ngắn đã chứng tỏ là thể loại năng động, có khả năng nắm bắt sự vận động của cuộc sống một cách nhanh nhạy, kịp thời nhưng vẫn khái quát được những vấn đề sâu sắc đặt ra trong đời sống. So với trước đây, truyện ngắn đã có những chuyển đổi rõ rệt, cả về nội dung và hình thức. Những năm đầu thế kỷ XXI, truyện ngắn đã có những bước phát triển mới đóng góp vào thành tựu của nền văn học đổi mới. Xuất phát từ thực tiễn đời sống thể loại, chúng tôi xét thấy cần có một công trình nghiên cứu hệ thống, cập nhật về những đặc điểm và quy luật vận động của thể loại trong đời sống văn học từ sau 1986. Mốc 1986 mà chúng tôi lựa chọn có ý hướng để giới hạn và tập trung vào giai đoạn sôi nổi và có nhiều thành tựu của văn học đương đại, của đời sống thể loại những năm sau chiến tranh. Trong khi thực tiễn đời sống thể loại truyện ngắn đang ngày một trở nên sinh động thì vấn đề lý thuyết thể loại truyện ngắn lại không ngừng được tra vấn, bổ sung, thậm chí là đối thoại tranh biện với những lý thuyết truyện ngắn tưởng đã ổn định trước đây. Những phát biểu về truyện ngắn vẫn không ngừng ra đời. Truyện ngắn, từ góc độ thể loại và ranh giới thể loại là vấn đề đáng quan tâm của văn học đương đại. Truyện ngắn đang mang trong mình nó những dấu hiệu của sự chuyển đổi, có nhiều ngả rẽ. Khuynh hướng thứ nhất là vẫn viết theo lối truyền thống, tuân thủ những đặc tính vốn có của thể loại, khuynh hướng thứ hai là truyện ngắn có 3 những cách tân nhưng vẫn tôn trọng những dấu hiệu quy chuẩn của thể loại và khuynh hướng thứ ba là những truyện ngắn hướng tới việc phá bỏ ranh giới thể loại. Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ thể loại là một hướng đi được lựa chọn nhằm góp phần lý giải đời sống thể loại trong bước chuyển của đời sống văn học những thập kỷ cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI. Tìm hiểu truyện ngắn đương đại trên cơ sở tham chiếu lý thuyết thể loại sẽ thấy được những thay đổi trong tư duy nghệ thuật, tư duy thể loại trong bối cảnh mới. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là tìm hiểu sự vận động của thể loại truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay, lý giải quy luật vận động, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tư duy nghệ thuật. Trên cơ sở tìm hiểu sự đổi mới tư duy thể loại, luận án đi sâu nhận diện và lý giải một số phương thức trần thuật, bút pháp nghệ thuật được sử dụng trong quá trình tạo lập văn bản truyện ngắn. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn từ 1986 đến nay trên các phương diện quan niệm và tư duy thể loại, nghệ thuật xây dựng nhân vật và kết cấu truyện ngắn, ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật. Phạm vi nghiên cứu Tập trung khảo sát những sáng tác truyện ngắn đặc sắc của các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Đỗ Chu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai,… Mặt khác, luận án cũng chú ý đến sáng tác của các cây bút trẻ xuất hiện gần đây như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phong Điệp,... Trong những năm gần đây việc các cây bút hải ngoại công bố tác phẩm ở trong nước không còn là trường hợp hiếm thấy Lê Minh Hà, Nguyễn Văn Thọ, Amond Nguyen Thi Tu,…. Đây cũng là đối tượng để chúng tôi tham chiếu khi đi vào những vấn đề của thể loại trong đời sống văn học đương đại. Ngoài ra, trong 4 quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động và phát triển của truyện ngắn, chúng tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu tới truyện ngắn trước 1986 và một số tác phẩm ở các thể loại khác như tiểu thuyết từ 1986 đến nay để có cái nhìn đối sánh và sâu hơn về đối tượng. 4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý thuyết Một lý thuyết dù có hiệu quả đến mấy thì cũng không thể là chìa khóa vạn năng khi đi vào giải mã thế giới nghệ thuật của nhà văn cũng như tìm hiểu một thể loại hay một tác phẩm, tác giả cụ thể. Đối với trường hợp nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác đời sống thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại, như hướng đi luận án lựa chọn, thiết nghĩ sự phối hợp nhiều lý thuyết khi nghiên cứu khảo sát là điều cần thiết. Trong luận án này, lý thuyết tự sự học, thi pháp học vẫn là lựa chọn chính yếu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng một số lý thuyết khác như phân tâm học, lý thuyết huyền thoại, lý thuyết hậu hiện đại,… nhằm có cái nhìn đa chiều khi tiếp cận và giải mã quá trình sáng tạo, sự đổi mới tư duy nghệ thuật của các cây bút truyện ngắn. Luận án cũng xác định và làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài như sự tương tác thể loại, sự pha trộn thể loại, tư duy tiểu thuyết trong truyện ngắn,… Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp cấu trúc hệ thống Đặt truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay trong sự vận động của văn học thời kỳ đổi mới, xem xét đối tượng như một hiện tượng có tính hệ thống, chúng tôi hướng tới việc xác định vị trí, ý nghĩa của một thể loại trong diễn trình văn học, đặc biệt là đời sống thể loại. - Phương pháp loại hình Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về thi pháp thể loại, qua đó thấy được quy luật phát triển của thể loại truyện ngắn từ thực tế đời sống văn học. - Phương pháp so sánh Để có sự đối sánh và cái nhìn sâu hơn về đối tượng, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát truyện ngắn giai đoạn này trong sự liên hệ để 5 tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa truyện ngắn thời kỳ đổi mới và truyện ngắn giai đoạn trước đó, giữa truyện ngắn và các thể loại văn học khác ở góc độ đồng đại và lịch đại. - Tiếp cận theo hướng thi pháp học, tự sự học. 5. Đóng góp của luận án Góp phần làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lý luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện ngắn sau 1986. Luận án góp phần vào việc nhìn nhận, đánh giá một phương diện của văn học sử qua việc tìm hiểu thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại. Từ góc nhìn lịch đại, luận án sẽ nhận diện những kế thừa và sự tiếp biến, đổi mới tư duy nghệ thuật truyện ngắn Việt Nam đương đại. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận án gồm 4 chương Chương 1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2 Truyện ngắn – quan niệm và sự đổi mới tư duy thể loại Chương 3 Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản truyện ngắn Chương 4 Ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc Khái lược về những nghiên cứu lý thuyết truyện ngắn Nguồn tư liệu nước ngoài về lý thuyết truyện ngắn vốn rất phong phú, tuy nhiên vì nhiều lý do, chúng tôi chưa thể bao quát được hết. Bởi vậy, khảo sát của luận án chủ yếu dựa trên nguồn tài liệu đã được giới thiệu trong nước. Thuật ngữ truyện ngắn short story tiếng Anh, nouvelle tiếng Pháp, đoản thiên tiểu thuyết tiếng Trung ra đời muộn nhưng tiền thân của truyện ngắn vốn xuất hiện từ rất sớm. Qua tiến trình lịch sử, đến nay truyện ngắn đã hiện diện với tính chất một thể loại có vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Truyện ngắn là thể loại phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới. Đã có nhiều ý kiến bàn về truyện ngắn, về khái niệm và đặc trưng của thể loại này. Mặc dù có những quan điểm không tách bạch trên phương diện lý thuyết thể loại giữa truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng dù muốn hay không truyện ngắn với tư cách là một thể loại vẫn tồn tại như một thực tế được thừa nhận. Đáng chú ý là số lượng truyện ngắn trên thế giới và ở Việt Nam vô cùng phong phú nhưng lại không dễ đưa ra một định nghĩa thống nhất, cho phép khái quát hết các đặc điểm của các tác phẩm. Trong lịch sử văn học, khái niệm truyện ngắn và những vấn đề lý thuyết thể loại luôn là vấn đề gây tranh cãi. Không những với người nghiên cứu mà với người sáng tác, các ý kiến, định nghĩa truyện ngắn không chỉ thay đổi theo thời gian mà còn có nhiều điểm khác biệt tùy vào quan điểm mỹ học của từng tác giả. Từ những năm đầu thế kỷ XIX, lý thuyết truyện ngắn đã được nghiên cứu ở phương Tây [60]. Đã có nhiều nhà văn coi truyện ngắn là một thể loại văn học riêng biệt. Edgar Allan Poe là một trong số đó. Quan tâm tới mỹ học truyện ngắn, Edgar 7 Allan Poe chú trọng tới “lý thuyết về bước ngoặt”, “thời gian văn bản” bao gồm cả thời gian đọc của độc giả. Những phạm trù này được chính nhà văn sử dụng trong khi viết truyện kinh dị với việc đặt ra yêu cầu hiệu quả của sự bất ngờ, cái kỳ dị, khác thường tác động đến người đọc. Frank Oconnor 1903 – 1966 - nhà văn có hơn 20 năm sống ở Mỹ từ 1945 lại coi tính chất ngắn của thể loại thuộc về phong cách nhà văn. Ông đặc biệt hứng thú với thể truyện rất ngắn vốn đòi hỏi sự cô đúc, ngắn gọn và súc tích vì “những truyện này rất gần với thơ trữ tình” [122, Ở Pháp, thế kỷ XIX được coi là thời kỳ hoàng kim của truyện ngắn với các tên tuổi Maupassant, Daude, Mérimée,… Nhiều tác phẩm truyện ngắn ra đời giai đoạn này tạo được sự quan tâm của người nghiên cứu, “trở thành cơ sở để họ xây dựng khung lý thuyết thể loại truyện ngắn” [157, Mục từ “truyện ngắn” trong Từ điển văn học Pháp ngữ định nghĩa “Với nhiều người, truyện ngắn so với tiểu thuyết giống như phim ngắn với phim dài. Truyện ngắn là bài tập của các nhà văn duy mĩ” [157, Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Phạm Thị Thật trong công trình Truyện ngắn Pháp cuối thế kỷ XX một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác [157] thì vấn đề định nghĩa thể loại truyện ngắn trong thực tiễn văn học Pháp cũng không đồng nhất từ việc xác định độ dài của truyện ngắn đến những vấn đề thuộc về thi pháp thể loại. Thực tế này là thách thức không chỉ với các “từ điển gia” mà còn với các nhà nghiên cứu, ngay cả những người viết truyện ngắn. Không có một định nghĩa nào thõa mãn được tất cả các tiêu chí, bởi vậy ý kiến của Annie Saumont nhà văn Pháp được đánh giá là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất hiện nay - về truyện ngắn có thể cho là dễ được chấp nhận “truyện ngắn là một văn bản ngắn trong đó có một câu chuyện, còn kể câu chuyện đó thế nào là việc của nhà văn” [157, nghĩa là câu chuyện có thể được thuật lại dưới mọi hình thức. Tên tuổi của nhiều nhà văn Nga cũng được vinh danh ở thể loại truyện ngắn như A. Tônxtôi, Pautôpxki, Shêkhôp. Đều có những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc nhưng mỗi nhà văn lại có những quan niệm và cách thức khác nhau khi viết truyện ngắn. Từ kinh nghiệm nghệ thuật, A. Tônxtôi chú trọng đến khả năng của người viết “Truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó khăn bậc nhất ... Trong truyện 8 ngắn, tất cả như trong bàn tay anh. Anh phải thông minh, như anh đã phải hiểu biết. Bởi lẽ hình thức nhỏ không có nghĩa là nội dung không lớn lao” [122, Pautôpxki nhận định “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn trong đó, cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” [122, Còn Shêkhôp khi viết truyện ngắn lại chú ý “tô đậm cái mở đầu và kết luận” [122, Thể loại thường gắn liền với tính quy ước với những yếu tố đặc định, nhưng không phải là những quy phạm cứng nhắc, bất biến. Không ít người viết truyện ngắn luôn có ý thức “khắc phục mọi sơ đồ”, “mọi đường mòn đã hình thành trong người viết và người đọc”. Đề cao khuynh hướng kể chuyện tự do trong truyện ngắn hiện đại, U. Xaroyan nhà văn Mỹ cho rằng “Chừng nào trên quả đất này còn nhà văn, và họ còn viết, truyện ngắn còn tìm được cách nhập vào mọi hình thức thể tài, chọn cho mình mọi dung lượng, mọi phong cách, và nó cũng có thể vượt ra, phá tung mọi hình thức, mọi khuôn khổ, phong cách đó” [122, Nhà văn Nhật Bản Kôbô Abê sinh 1924 cũng có đồng quan điểm với U. Xaroyan về sự sáng tạo trong truyện ngắn “Tính kịp thời là một đặc điểm đáng ngạc nhiên của truyện ngắn. Đó là một sự tự do, nó cho phép truyện ngắn không bị ràng buộc bởi những hình thức nghệ thuật đã thành quy phạm. Mặt khác, truyện ngắn cũng có khả năng “chín” rất nhanh. Hình thức truyện ngắn vừa luôn luôn vỡ ra, thay đổi, vừa luôn luôn được hàn gắn “cấu trúc” lại” [122, Có thể thấy quan niệm và lối viết của các nhà văn theo thời gian đã trở nên uyển chuyển hơn, đặc điểm của truyện ngắn hiện đại do vậy ngày càng khác xa với truyện ngắn truyền thống. Do khả năng biến động và tính năng sản của thể loại nên đã có rất nhiều quan niệm truyện ngắn được xác lập, theo đó cũng có nhiều cách hiểu về truyện ngắn. Thứ nhất, coi truyện ngắn tồn tại như một thể loại độc lập, có những đặc trưng riêng về thi pháp thể loại. Xu hướng thứ hai là đặt truyện ngắn trong mối liên hệ với các thể loại tương cận như tiểu thuyết ý kiến của D. Grojnowski. Bên cạnh đó, lại cũng có nhà văn tuyên ngôn rằng khi sáng tác họ từ chối mọi quy định lý thuyết và vì thế truyện ngắn ít bị ràng buộc bởi các quy phạm. Có thể thấy việc đưa ra được 9 một định nghĩa nhất quán về truyện ngắn là một thách thức với không chỉ các nhà văn mà còn với cả các nhà nghiên cứu. Cùng với việc đưa ra quan niệm về truyện ngắn, các nhà văn cũng chia sẻ những kinh nghiệm viết truyện ngắn, những công việc “bếp núc” của người sáng tác. Xung quanh vấn đề này đã có nhiều ý kiến Môôm, Hêmingway, O’Connor, Pautôpxki,…. Từ thực tiễn sáng tác – Môôm Wiliam Somerset Maugham – nhà văn Anh hiện đại, tác giả của nhiều tập truyện ngắn chia sẻ “Trong nghệ thuật tôi thiên về sự chuẩn mực, về trật tự nghiêm ngặt và trong truyện ngắn, tôi lại càng thích mọi chuyện được sắp xếp chặt chẽ” [122, Những kinh nghiệm này thực sự cần thiết không chỉ với người viết truyện ngắn mà cả với tác giả luận án. Đây là những gợi mở để người viết phân tích những vấn đề kỹ thuật viết truyện ngắn của nhà văn. Những nghiên cứu liên quan đến từng trƣờng hợp, tác giả, tác phẩm cụ thể Đã có một số bài viết của các học giả nước ngoài lựa chọn một trường hợp, một tác giả truyện ngắn Việt Nam đương đại làm đối tượng khảo sát như trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, chẳng hạn Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp – Evelipe Pieller, Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - [107]. Một số nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam ở hải ngoại Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê cũng đã có các bài viết về truyện ngắn của tác giả trong nước Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học Thụy Khuê, Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Thụy Khuê,… Trong một số Hội thảo quốc tế được tổ chức ở Việt Nam có những học giả bước đầu quan tâm đến một số tác phẩm và tác giả truyện ngắn Việt Nam đương đại từ những góc nhìn mới, chẳng hạn tại Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế do Viện Văn học và Viện Harvard – Yenching phối hợp tổ chức năm 2006 có các tham luận Khi người ta trẻ những 10 câu chuyện nữ sinh của Phan Thị Vàng Anh – Rebekah Collins Nghiên cứu sinh đại học California – Mỹ, Giao thông với tư cách biểu tượng trong văn học đổi mới – Jonathan McIntyre – Đại học Cornell, New York, Mỹ. Điều đáng chú ý là với những học giả nước ngoài họ thường lựa chọn và giải quyết những vấn đề nghiên cứu gắn với thực tiễn đời sống và đây là đặc điểm khác biệt với tư duy nghiên cứu của người bản địa. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc Về khái niệm và định nghĩa truyện ngắn Đã có nhiều công trình nghiên cứu hoặc tập hợp những bài nghiên cứu về truyện ngắn với tư cách là một thể loại tự sự trong đó có đề cập đến khái niệm thể loại. Đáng chú ý là các công trình Sổ tay truyện ngắn [122], Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký [115], Bình luận truyện ngắn [152], Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại [153]; Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử, thi pháp, chân dung [125], Những vấn đề thi pháp của truyện [66], Tìm hiểu truyện ngắn [37], Truyện ngắn lí luận, tác gia và tác phẩm [10]. Mặc dù chưa có một định nghĩa nhất quán nhưng thuật ngữ “truyện ngắn” đã được nhiều tác giả công trình lý luận, từ điển và người viết truyện ngắn định danh. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa truyện ngắn là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”, “khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người” [126, Trong Từ điển văn học tập 2, Nxb Khoa học xã hội, 1984 truyện ngắn được quan niệm “Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai 11 đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội.” [127, Các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn từ trước tới nay cũng đã đưa ra những cách hiểu của mình về truyện ngắn. Từ góc độ người sáng tác nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng “truyện ngắn phải có “chuyện”, tức có thể kể lại cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn” [122, Theo nhà văn Nguyễn Kiên thì “truyện ngắn là một trường hợp” trong khi Nguyễn Công Hoan lại quan niệm “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc”, “muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man” [122, Nhiều nhà văn cũng đã chia sẻ về những kinh nghiệm, kỹ thuật viết truyện ngắn. Công trình biên soạn Sổ tay truyện ngắn Vương Trí Nhàn hệ thống lại những kinh nghiệm viết truyện của một số nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng. Từ kinh nghiệm viết truyện ngắn của bản thân, nhà văn Tô Hoài đúc kết “truyện ngắn là một thể văn tạo cho người viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với truyện ngắn, người ta mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Nhà văn mình thường yếu không tạo được phong cách riêng. Truyện ngắn là nơi là có thể thử tìm phong cách cho mình. Truyện ngắn đòi hỏi sự hoàn thiện” [122, Với quan niệm viết truyện ngắn là một công việc rất thiêng liêng, bởi đó là một cuộc gặp gỡ giữa người viết và người đọc, một cuộc gặp gỡ phút chốc, nhưng để lại một ấn tượng sâu đậm, làm người ta khó quên, nhà văn Đỗ Chu chia sẻ “Với tôi, thường cốt truyện không thành vấn đề lắm. Và cả nhân vật nữa, giữa nhân vật với tôi không có sự phân biệt đáng kể. Tôi không bám vào hiện tượng quan sát được, mà thường ướm mình vào nhân vật, không giả sử mình đóng vai người khác sẽ ra sao, mà thường giả sử trong trường hợp đó, mình sẽ xử sự ra sao. Tôi muốn huy động vai trò của bản thân một cách cao nhất. Và mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh của sự phân thân” [122, 12 Ngoài ra còn có những công trình khảo cứu truyện ngắn không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước phương Tây Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh Đào Ngọc Chương [22], Truyện ngắn Pháp cuối thế kỷ XX một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác Phạm Thị Thật [157]. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn của một số nước trên thế giới, trong các công trình này, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt ra được một số vấn đề thuộc về lý thuyết và thực tiễn truyện ngắn ở một số nước trên thế giới như Pháp, truyện ngắn Mỹ, truyện ngắn Châu Mỹ. Quan sát những nhận định, ý kiến, bàn luận về truyện ngắn từ xưa đến nay có thể thấy rõ hai khuynh hướng chính sau đây thứ nhất, chỉ ra những đặc trưng của truyện ngắn, theo đó “truyện ngắn chỉ dừng lại ở một khoảnh khắc nào đó tiêu biểu trong một đời người” “trong sự hạn chế của không gian thời gian, tính cách trong truyện ngắn thường khi là những tính cách đã hình thành ổn định và người ta chỉ bắt gặp nó, hơn là việc chứng kiến nó phát triển”. Bên cạnh những quan niệm coi truyện ngắn là một thể loại độc lập với những tiêu chí rõ ràng thì cũng có những cách thức so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết để tìm ra đặc trưng của truyện ngắn. Cũng lại có những quan niệm coi truyện ngắn là “một loại tiểu thuyết rất ngắn”, truyện ngắn nằm trong phạm trù của truyện kể, truyện ngắn gần với tiểu thuyết nghĩa là vẫn lấy tiểu thuyết làm điểm quy chiếu. Dù định nghĩa truyện ngắn khá phong phú và quan niệm về thể loại này còn có nhiều điểm chưa đồng nhất nhưng truyện ngắn với tư cách là một thể loại thuộc loại hình tự sự vẫn có những đặc điểm đặc thù. Tính chất ngắn của thể loại là dấu hiệu bề mặt. Dung lượng truyện ngắn là ngắn nhưng thể loại này vẫn có một sức dung chứa lớn. Truyện ngắn với tư cách là một khái niệm thể loại không chỉ vì truyện của nó ngắn mà vì “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”. Truyện ngắn có thể là một tình thế, một khoảnh khắc nhưng cũng có thể phản ánh nhiều phương diện khác nhau của đời sống. Do sự khuôn định về dung lượng nên buộc người viết truyện ngắn phải chú ý đến những phương diện được cho là lợi thế của truyện ngắn. Chi tiết, tình huống, kết cấu và ngôn ngữ là những phương diện được chú ý khai thác của người viết truyện ngắn. Truyện ngắn thường hạn chế về nhân vật “Trong 13 tiểu thuyết hay truyện dài sự kiện hành động nhằm để mô tả tâm lý nhân vật, nó có thể rẽ ngang rẽ tắt. Trong khi đó với một dung lượng nhỏ hơn rất nhiều, truyện ngắn chỉ chớp lấy cái thần thái của nhân vật khiến nó phải bộc lộ tính cách bằng cách khoan sâu vào lớp đời sống bao quanh nhân vật” [115, Với tính chất ngắn, truyện ngắn đòi hỏi một độ căng, độ dồn nén cần thiết để có thể chuyển tải hiệu quả thông điệp của người viết, bởi vậy “truyện ngắn thường mang lại những âm vang dài và rộng hơn khuôn khổ chật hẹp về mặt hình thức của nó”, chính vì thế, “đôi khi chỉ một truyện ngắn vài ngàn chữ, lại cho thấy một sự bao trùm về không gian, thời gian, lịch sử… rộng lớn của một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [115, Vậy thì, dung lượng ở đây là sự giới hạn về số trang tỷ lệ nghịch với những giá trị biểu đạt, với sức dung chứa, với những tầng nghĩa mà nhà văn muốn biểu đạt. Điều quan trọng là ở lối viết và khả năng sáng tạo các thủ pháp nghệ thuật của nhà văn. Từ trước đến nay những phát biểu liên quan đến lý thuyết truyện ngắn rất nhiều nhưng không dễ tìm được một định nghĩa thống nhất. Lý giải thực tế này, nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng “do năng lực ôm chứa của truyện ngắn ngày càng tỏ ra vô tận nên thể tài này trong những năm gần đây đã mang một tầm vóc lớn lao về tư tưởng và nghệ thật rất đáng nể trọng. Và đó là nguyên nhân khiến co những định nghĩa về nó trong các sách giáo khoa kinh điển đã trở nên bất cập” [135, 205]. Một phương diện cần phải nói tới là dù tồn tại như một thể loại độc lập nhưng những vấn đề cơ bản của truyện ngắn cũng có thể nằm trong phạm trù tiểu thuyết. Bakhtin khi đề cập đến những vấn đề thi pháp tiểu thuyết thì cũng bao hàm trong đó cả những vấn đề thuộc về truyện ngắn. Trong công trình Những vấn đề thi pháp của truyện Nguyễn Thái Hòa khi phân chia các thể loại truyện thì thể loại tiểu thuyết đã bao gồm cả truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng “truyện ngắn là một thể loại rất động. Nó không tự nhốt mình trong một khuôn phép nào và có lẽ ở đây một lần nữa ta lại thấy sự giao thoa giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, không có ranh giới tuyệt đối giữa hai thứ đó” [115, Bởi vậy, tìm hiểu truyện ngắn từ góc độ thể loại, một mặt, chúng tôi hướng tới việc đi tìm những đặc trưng của thể loại truyện ngắn trên cơ sở soi chiếu thực tiễn và thi pháp sáng tác 14 truyện ngắn Việt Nam đương đại; mặt khác, sẽ không tránh khỏi việc xem xét truyện ngắn trong những mối liên quan với tiểu thuyết từ thực tiễn sáng tác thể loại truyện ngắn trong một bối cảnh cụ thể là văn học Việt Nam từ thời kỳ đổi mới. Đã có nhiều ý kiến bàn về đặc trưng thể loại cũng như những chia sẻ về nghệ thuật và kinh nghiệm viết truyện ngắn. Bên cạnh đó, từ thực tiễn khảo sát truyện ngắn, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những đúc kết quan trọng ở phương diện lý thuyết. Những quy ước nghệ thuật đó là cơ sở để chúng tôi tham chiếu khi nghiên cứu sự vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học hôm nay. Các công trình, bài viết đề cập đến truyện ngắn từ sau 1986 Những vấn đề chung Sau 1986 cùng với sự xuất hiện đông đảo đội ngũ những người viết truyện ngắn với sự thay đổi trong lối viết đã có nhiều công trình lựa chọn truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn đổi mới làm đối tượng nghiên cứu. Khảo sát truyện ngắn thời kỳ đổi mới, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tiếp cận với nhiều phương diện của thể loại. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn đề của truyện ngắn, các tác phẩm cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn học sôi động. Các công trình nghiên cứu về sự vận động của truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã giúp người đọc thấy được những bước đi của thể loại trong tiến trình văn học dân tộc. Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại truyện ngắn như luận án tiến sĩ của Lê Thị Hường hoàn thành năm 1995 Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 -1995 [74]; các công trình, chuyên luận như Bình luận truyện ngắn Bùi Việt Thắng [152], Truyện ngắn Việt Nam lịch sử, thi pháp, chân dung Nhiều tác giả [125]; Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại Bùi Việt Thắng [153] đã có nhiều bài viết quan tâm nghiên cứu nhiều vấn đề của truyện ngắn. Các công trình, bài viết ở nhiều góc độ đã đề cập đến thành tựu của truyện ngắn sau 1975, những đóng góp và thách thức của thể loại trong đời sống văn học đương đại. Tìm hiểu sự vận động của truyện ngắn trong dòng chảy của văn học 15 những thập niên cuối thế kỷ XX, nhiều người có đồng quan điểm với nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá trình đổi mới văn học đương đại “Không quá khi nói rằng độ khoảng mười năm qua 10 năm đầu thời kỳ đổi mới – tác giả luận án là thời kỳ hưng thịnh của truyện ngắn… truyện ngắn đang thăng hoa” [152, Cùng với các công trình mang tính tổng quan về văn xuôi trong đó có đề cập đến thể loại truyện ngắn Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản Nguyễn Thị Bình [13] là các bài viết khảo sát quá trình vận động của văn xuôi nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng ở từng giai đoạn, từng thời kỳ và trong từng năm Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 Bích Thu [161], Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh Tôn Phương Lan [81], Trong tấm gương của thể loại nhỏ Bùi Việt Thắng [152] Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay Phạm Xuân Nguyên [101], Truyện ngắn nhìn từ trong nguồn mạch Lại Văn Hùng [69], Nhìn lại văn xuôi 1992 Mai Hương [73], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới Lý Hoài Thu [164], Truyện ngắn hiện nay, sức mạnh và hạn chế Nguyên Ngọc [99],…Đa phần các bài viết có chung quan điểm trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá trình đổi mới văn học đương đại. Khảo sát sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới Lý Hoài Thu khẳng định đây là thời kỳ truyện ngắn lên ngôi. Cắt nghĩa về điều này, tác giả cho rằng “Trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép của các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả” [164]. Bích Thu trong bài viết Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 [161] đã có một cái nhìn và cách đánh giá khá toàn diện về truyện ngắn sau 1975 từ việc khảo sát truyện ngắn trên các phương diện cốt truyện, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con người, ngôn ngữ trần thuật. Một trong những “mảnh đất ươm mầm” các cây bút truyện ngắn là các cuộc thi truyện ngắn liên tục được tổ chức trên các báo và tạp chí. Bên cạnh việc tham dự của nhà văn là sự quan tâm của các nhà phê bình. Ngay sau khi các tác phẩm được đăng tải, nhiều nhà phê bình đã có ý kiến phản hồi tạo nên những hiệu ứng tích cực 16 cho đời sống văn học các bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Lý Hoài Thu, Bùi Việt Thắng, Xuân Thiều, Bùi Hiển Tản mạn bên lề cuộc thi Phạm Xuân Nguyên, tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1993, Những truyện ngắn hay Lý Hoài Thu, tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/1993, Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một nền văn học đổi mới, lành mạnh Báo cáo tổng kết cuộc thi truyện ngắn 1992 – 1994, tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994,... Những bài viết này cho thấy gương mặt mới của thể loại trong đời sống văn học đương đại cùng những chuyển biến tích cực so với truyện ngắn giai đoạn trước. Những sáng tác mới của các tác giả trẻ cũng luôn dành được sự chú ý và phản hồi của người đọc. Khi tìm hiểu sáng tác của lớp nhà văn trẻ này, nhiều bài viết một mặt khẳng định những đóng góp và sáng tạo mới, mặt khác còn đề cập đến những thách thức trong sáng tạo nghệ thuật ở họ Văn trẻ - phía trước và hy vọng, Khi người ta trẻ I, Khi người ta trẻ II, Bắt mạch văn trẻ Bùi Việt Thắng [152]. Cùng với tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ, báo Văn nghệ trẻ,… là những cái nôi cho sự xuất hiện của các truyện ngắn, nhất là truyện ngắn của các tác giả trẻ. Đồng hành với sáng tác của các cây bút trẻ, với các sáng tác mới là việc đăng tải các bài phê bình cập nhật về sáng tác của họ. Sự xuất hiện của các tập Truyện ngắn 8X và Vũ điệu thân gầy đã dấy lên những tranh luận trên văn đàn. Từng có những cuộc hội thảo, tọa đàm về sáng tác của những cây bút thế hệ 8X tọa đàm về hai tập truyện ngắn Vũ điệu thân gầy và Truyện ngắn 8X do Ban công tác Nhà văn trẻ tổ chức ngày 28/6/2007 tại Hà Nội. Điều này cho thấy ý thức và nhu cầu được viết đúng bản ngã của người viết và sự quan tâm của bạn đọc đối với một thế hệ viết mới. Phần lớn các ý kiến đều hướng tới việc lý giải những vấn đề trong sáng tác trẻ như nhà văn trẻ và câu chuyện thế hệ, vấn đề vốn sống với nhà văn trẻ, việc lựa chọn đề tài và lối viết, những hạn chế, căn bệnh của người viết trẻ cũng được chỉ ra. Truyện ngắn từ phương diện thể loại cũng đã ít nhiều được các tác giả, các nhà nghiên cứu đề cập đến, ở các phương diện những đổi mới trong tư duy thể loại, những cách tân trong nghệ thuật tự sự của các cây bút truyện ngắn. Sự có mặt của hình thức truyện rất ngắn còn gọi là truyện ngắn mi ni cũng không nằm ngoài sự quan tâm nghiên cứu 17 của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Tìm hiểu truyện ngắn sau 1975 các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến sự hiện diện của thể loại truyện rất ngắn trong đời sống văn học và coi đó như một nhu cầu tất yếu xuất phát từ cả chủ thể sáng tạo và đối tượng tiếp nhận. Nhiều tác giả đã dành sự quan tâm cho thể loại này như Đặng Anh Đào với Truyện cực ngắn [33], Nguyên Ngọc với Truyện rất ngắn – tác phẩm nghệ thuật, Lê Dục Tú với Thể loại truyện rất ngắn trong đời sống văn học đương đại [174]. Theo dõi tình hình nghiên cứu truyện ngắn đổi mới, có thể thấy, đa phần các ý kiến đều thống nhất cho rằng “Truyện ngắn Việt Nam đang có những chuyển đổi mạnh mẽ, đang được mùa, “thăng hoa” và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn học đương đại. Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cùng với sự vận động của thể loại, truyện ngắn thời kỳ đổi mới từ những hiện tượng đến những vấn đề đặt ra trong từng tác giả, tác phẩm cụ thể đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Bên cạnh cách tiếp cận từ đề tài sáng tác truyện ngắn chiến tranh, hôn nhân và tình yêu, vấn đề gia đình, đề tài người lính, truyện ngắn viết về nông thôn, truyện ngắn miền núi, giới tình và tình dục là những hướng tiếp cận về sự đổi mới hình thức thể loại, về nghệ thuật tự sự. Tiếp cận từ những hiện tượng Trong suốt hơn hai mươi năm đổi mới, đời sống thể loại truyện ngắn đã có một số hiện tượng đáng chú ý. Văn đàn những năm cuối thập kỷ tám mươi từng dấy lên cuộc tranh luận về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, ngay từ trước đó, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã gây được chú ý. Cùng với những tuyên ngôn nghệ thuật, đặc biệt bài viết “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, nhiều sáng tác của ông như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát đã cho thấy một sự thay đổi đáng kể trong tư duy nghệ thuật. Nhiều bài viết đánh giá cao những cách tân nghệ thuật và khẳng định đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên tiến trình đổi mới văn học những năm sau chiến tranh Đọc Nguyễn Minh Châu từ Bức tranh đến Phiên chợ Giát - Hoàng Ngọc Hiến [56], Đọc Phiên chợ 18 Giát của Nguyễn Minh Châu Đỗ Đức Hiểu [63]. Đọc Phiên chợ Giát, Đỗ Đức Hiểu nhận định “Phiên chợ Giát là một truyện mở; từ cái lô gic của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ biểu tượng, xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, những nghịch lý, tức là một thế giới quyện nhòe của hư và thực, đó là những ký hiệu riêng của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này. Truyện không khép kín ở một ý nghĩa nào, nó mở ra cho mỗi nhóm người đọc một chân trời, người đọc tham dự vào văn học” [63, Phạm Vĩnh Cư nhận thấy tư duy tiểu thuyết đã làm nên những thay đổi đáng kể ở cây bút này Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu [26]. Trong cuộc hội thảo kỷ niệm 1 năm và 5 năm ngày mất của ông, nhiều tham luận đã đánh giá cao vai trò của Nguyễn Minh Châu ở tư cách người mở đường cho sự đổi mới văn học mà cũng có thể coi là đổi mới truyện ngắn. Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới. Ngay khi công bố tác phẩm, đã có những dư luận trái chiều về sáng tác của ông. Năm 1987, truyện ngắn Tướng về hưu xuất hiện, tiếp sau đó là các truyện ngắn Con gái thủy thần, Không có vua, Những ngọn gió Hua Tát và nhất là chùm truyện ngắn lịch sử Vàng lửa, Kiếm sắc và Phẩm tiết. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã dấy lên những cuộc tranh luận trên văn đàn với những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Xung quanh cuộc tranh luận này đã có nhiều bài viết đáng chú ý Có nghệ thuật Ba - rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không?, Về truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp Tạ Ngọc Liễn, Đọc văn phải khác với đọc sử Lại Nguyên Ân, Có một cách đọc “Vàng lửa” Đỗ Văn Khang, “Đọc” Nguyễn Huy Thiệp Văn Tâm, Khi ông tướng về hưu xuất hiện Đặng Anh Đào. Các bài viết quan trọng về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp được tập hợp giới thiệu trong Nguyễn Huy Thiệp tác phẩm và dư luận và Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Phần lớn các ý kiến đều ghi nhận những đóng góp nổi bật của Nguyễn Huy Thiệp, về cái mới trong sáng tác của ông từ cách tiếp cận đề tài, xử lý chất liệu hiện thực đến đổi mới bút pháp. Dù có những ý kiến, chỉ trích, phê phán truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhưng đa phần lại thừa nhận tài năng của tác giả. Các bài viết chủ yếu tập trung vào 19 việc tìm hiểu những cách tân nghệ thuật truyện ngắn của ông trong việc tìm tòi, tiếp cận và xử lý chất liệu hiện thực trong đó có hiện thực huyền ảo, về “quyền” được hư cấu ở mức độ nào của người viết truyện ngắn lịch sử. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã làm dậy sóng văn đàn và khơi mở một cách viết mới về đề tài lịch sử. Hiện tượng truyện ngắn nữ vào nửa cuối thập niên 80 và trong suốt thập niên 90 cũng gây được sự chú ý của người đọc và giới nghiên cứu phê bình. Có thể thấy phần lớn các cây bút nữ đương đại thường chọn truyện ngắn để thử sức và dấn thân, được độc giả nhìn nhận như những cây bút truyện ngắn và nhiều người trong số họ cũng sớm thành danh ở thể loại này. Đây được coi là thời kỳ thăng hoa của truyện ngắn nữ, là giai đoạn “âm thịnh”. Những cây bút như Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,… đã sớm thành danh trên văn đàn, sáng tác của họ đã tạo được dư luận, gây được sự chú ý của độc giả bởi cách đặt và xử lý vấn đề, bởi những quan niệm mới mẻ, táo bạo về nhân sinh. Xung quanh hiện tượng này đã có nhiều ý kiến, phân tích lý giải. Tạp chí Văn học số 6/1996 đăng tải tường thuật buổi tọa đàm Phụ nữ và sáng tác văn chương [120] trong đó tập trung ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình lẫn sáng tác như Đặng Anh Đào, Lê Minh Khuê, Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn. Các ý kiến tập trung lý giải sự xuất hiện đông đảo các cây bút truyện ngắn nữ sau 1975 cũng như những đổi mới về hướng tiếp cận đời sống và phương thức thể hiện trong sáng tác của họ. Đồng thời, có rất nhiều bài viết lựa chọn văn xuôi nữ, truyện ngắn nữ làm đối tượng khảo sát Văn xuôi của phái đẹp Bích Thu [162], Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại Nguyễn Thị Bình [12], Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ Nguyễn Thị Thành Thắng [156],… Từ những góc độ khác nhau, các tác giả đã có sự nhìn nhận trên nhiều bình diện của truyện ngắn các cây bút nữ, đề cập đến những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của họ. Các bài viết khẳng định sự tiếp nối về đội ngũ cũng như những đặc điểm của giới tính bộc lộ qua cách nhìn hiện thực và con người. Những năm gần đây trong đời sống lý luận phê bình văn học đang hình thành xu hướng tiếp cận sáng tác của các cây bút nữ, của truyện ngắn nữ từ góc độ nữ quyền luận. Trên 20 thế giới, việc áp dụng lý thuyết nữ quyền vào nghiên cứu sáng tác của các cây bút nữ đã có ở nhiều nước phương Tây như Pháp, Mỹ - nơi mà phong trào đấu tranh cho nữ quyền đã trở thành một xu hướng chính trị có ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống. Ở Việt Nam tình hình có khác vì việc đấu tranh cho nữ quyền không trở thành một hiện tượng có ảnh hưởng sâu rộng. Tuy nhiên một số bài viết cũng đã bước đầu tiếp cận với sáng tác của các cây bút nữ từ lý thuyết này. Cũng cần lưu ý một thực tế là khi tiếp cận với sáng tác văn học Việt Nam từ lý thuyết phương Tây đã có những công trình, bài viết ứng dụng có hiệu quả các lý thuyết vào nghiên cứu thực tiễn lý thuyết tiếp nhận nhưng cũng có trường hợp không tránh khỏi khiên cưỡng và vì thế chưa có được kết quả khả quan. Đầu thế kỷ XXI, cùng với những chuyển động của đời sống văn học là hiện tượng Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, truyện ngắn 8X. Cánh đồng bất tận in lần đầu trên báo Văn nghệ năm 2005 và được trao tặng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2006. Ngay từ khi xuất hiện, truyện ngắn này đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía người phê bình, nghiên cứu cũng như người đọc, được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh, được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nước ngoài. Từng có nhiều tập truyện ngắn trước đó nhưng đến Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt phá ngoạn mục với cách viết táo bạo. Dù có nhiều luồng ý kiến xung quanh nó nhưng dư luận nhìn chung đánh giá cao Cánh đồng bất tận những nỗi đau, bất hạnh của con người, những thực trạng đời sống được Nguyễn Ngọc Tư khai thác đến tối đa, đẩy đến tận cùng nhưng tác phẩm lại thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả. Bên cạnh đó những thành công trong nghệ thuật tự sự như thay đổi bút pháp và giọng điệu, nghệ thuật kết cấu và ngôn ngữ tác phẩm cũng được ghi nhận. Năm 2005, tập truyện Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu được xuất bản và ngay lập tức nhận được những luồng dư luận trái chiều. Các ý kiến tập trung vào truyện ngắn Bóng đè – tác phẩm được lấy làm tên chung cho cả tập. Một bộ phận người đọc đánh giá cao truyện ngắn, cho rằng đây là một tác phẩm hay cả về nội dung và lối viết ý kiến của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên, Nguyên Ngọc. Một bộ
• Đã gọi là phong cách, ít ra phong cách ấy cũng xuất phát từ hơn nửa thế kỷ, hoặc hơn nữa, không thể nhìn vào hiện tượng vài mươi năm rồi mất hẳn. Và trong tương lai, phong cách xưa vẫn còn tồn tại, phát triển, khó thay đổi về cốt lõi. • Phong cách của người Sài Gòn so với cả nước không có gì khác lạ. Ở đâu trên nước Việt Nam mà người dân không hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài, lanh lẹ, cần cù, nhưng ở Sài Gòn, phong cách ấy thể hiển đậm nét, ở vài khía cạnh nào đó. Phong cách nào phải do trời đất ban cho, nhưng thành hình do hoàn cảnh bắt buộc con người phải thích ứng, hội nhập, bằng không thì dễ bị đào thải. Thích ứng để tồn tại, vươn lên. Hoàn cảnh do sinh hoạt kinh tế, với quy luật riêng. Ai cũng biết, đó là văn minh biển Sài Gòn là hải cảng, ngay từ khi mở nước 300 năm trước, để giao lưu với các nước Đông Nam Á, sau đó là các nước phương Tây. Sài Gòn cũng là nơi nhộn nhịp với văn minh sông nước về phía đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, Sài Gòn còn là không cảng quốc tế quan trọng. Mà khi đã là vùng cảng, thì luôn luôn có nhiều dịch vụ cần thiết, để thu mua hàng hóa, phân phối hàng hóa… đời sống tương đối ddễ dàng hơn so với nông dân vùng xa, vùng sâu. Thành phố cảng phải có hạ tầng cơ sở cần thiết như nhà ở, đường xá, cống rãnh, bệnh viện, trường học, ăn uống, giải trí … Một yếu tố quan trọng phải được nhắc đến, đó là trên đường mở nước, từ những làng mạc khép kín với lũy tre, làng xóm lần hồi mở rộng ra, chỉ còn ranh giới mơ hồ về quản lý hành chính. Người đã bỏ làng quê không bị ràng buộc chặt chẽ về luân lý phong kiến, thể diện gia tộc. Với phố cổ Hội An thời Chúa Nguyễn, mặc nhiên vua chúa phải ban hành cho phía Nam một qui chế dễ dãi. Quá khứ người tù đày, thường phạm bắt buộc phải đi khẩn hoang vẫn còn trong tiềm thức. Đi xa quê hương, nhưng vẫn gắn bó với sông Mã, sông Hồng, non sông liền một dải, chung một lịch sử, một văn hóa, cụ thể là về phong tục vẫn giữ cốt lõi, qua những lễ hội, văn hóa, văn học … Người Sài Gòn cũng ưa nghe tin tức, hay còn gọi là tìm lượng thông tin, bởi vậy báo chí là là món ăn cần thiết. Họ đọc báo để tìm hiểu tình hình chung, đặc biệt là tin tức liên quan đến công việc làm ăn hàng ngày của mình. Thiếu lượng thông tin, hóa ra lạc hậu, thất bại trong việc làm ăn, vì tình hình luôn biến động từng giờ, từng phút. Và cũng vì ngành này liên quan đến ngành khác, người ta phải đọc báo để kiểm tra cho đầy đủ. Ngồi quán cà phê đọc báo, chờ bạn bè, ai không đọc báo thì lắng nghe người đã đọc tóm lược giùm. Ta không lấy làm lạ khi thấy báo bán chạy, nhất là báo Sài Gòn giải phóng, cần thiết để hiểu đường lối cho mọi công dân. Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh bán chạy lạ thường, hợp với khẩu vị của nhiều giới tin xác thực, đọc lên thấy vui. Lại còn biết được thủ đoạn gian manh để đề phòng. Đọc báo để giải trí, xem quảng cáo xe cộ, nhà đất… ngồi không cũng vô ích. Giao thiệp với bạn bè, tìm bạn mới, trao đổi nhau số điện thoại, danh thiếp. Ăn uống lặt vặt, ai trả tiền cũng được, người tuy khác ngành nghề nhưng biết đâu sẽ giúp đỡ mình chuyện gì đó. Làm quen với anh phu xích lô, cũng là một dịp huống gì với một thương gia. Người đang thất nghiệp cũng có thể giúp đỡ ta khi có dịp. Làm dịch vụ mua bán lớn nhỏ cần sự sòng phẳng. Làm ăn vui vẻ, bất chấp đối tác của mình có quá khứ như thế nào, miễn là giữ chữ tín. Ai gặp khó khăn, có thể thất tín, nhưng phải khiêm tốn xin lỗi. Giận hờn để làm lành, với một tiệc nhỏ rồi bỏ qua, nhưng theo luật giang hồ là “bất quá tam”, nghĩa là đến lần thứ ba thì không khoan dung được. Hào hiệp, nghĩ rằng người đến Sài Gòn đa số là kẻ sa cơ thất thế, vì vậy mà giúp đỡ tận tình, nhưng đừng hiểu lầm đó là ngây thơ, khờ khạo. Là vùng ít thiên tai, bão lụt nên dễ sống. Có nhiều dịch vụ linh tinh, nhờ thế người nghèo có thể sống được, thậm chí, nếu chịu khó thì cũng có thể khá lên được sau vài tháng. “Tiến thì về nội, thôi thì về ngoại”, còn hậu phương thì khá vững, đó là bà con, họ hàng bên vợ, là bạn bè chí cốt ở đồng bằng hoặc miền Đông. Các Chị ở Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung khá linh hoạt, giỏi làm kinh tế, nhất là trong nghề tiểu thương, tảo tần nuôi chồng con, hiếu đễ với cha mẹ. Ngoài ra còn có thói quen cho vay tiền bạc góp, làm ăn nhờ tiền vay này, “làm bữa nào xào bữa ấy”. Ta thấy suốt ngày, thậm chí đến 8 giờ khuya vẫn còn có người đi chợ mua rau cải, gạo cá. Ham thích du lịch, nhất là đi chùa chiền, miếu mạo theo sự đồn đại của bạn bè. Tư tưởng đa thần, cái gì cũng theo, cũng tin, để cầu mong phước đức kinh tế thị trường quả là sự rủi may, cho nên giàu thì không dám khinh lờn thần thánh, nghèo thì khấn vái để được gặp may mắn. Nét tích cực nhất của người Sài Gòn là làm điều từ thiện, theo cảm tính, dễ thương người. Luôn giúp người khuyết tật, nạn nhân bão lụt, thiên tai, theo quan niệm “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Hiện nay, những phong cách trên của người Sài Gòn vẫn còn thể hiện khá rõ. Mặc dầu lúc giao thời với kinh tế thị trường, một số người trẻ tuổi có những biểu hiện nông nổi, nhưng quá 50 tuổi, ai cũng trở về nguồn với kỷ niệm, với tâm linh. Sơn Nam Trích trong “Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ”
tâm lý người việt nam nhìn từ nhiều góc độ