Viêm âm đạo là tình trạng viêm nhiễm, nhiễm trùng ở âm đạo của chị em nữ giới gây ngứa rát, sưng đau, tấy đỏ và ra nhiều khí hư bất thường có mùi hôi khó chịu ở âm đạo – âm hộ, chủ yếu do vi khuẩn, nấm, trùng roi, tạp khuẩn, ký sinh trùng gây nên. Bệnh có 1.1. Khái niệm: Các bệnh viêm của cơ bao gồm nhiều bệnh với các bản chất khác nhau. Hiện nay người ta phân ra hai loại: Bệnh viêm cơ do nhiễm khuẩn và ký sinh trùng, mang các đặc điểm của một bệnh nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng. Bệnh viêm cơ thuộc nhóm bệnh tạo keo Bệnh viêm da cơ địa: định nghĩa triệu chứng và yếu tố hình thành. Ngày 12/06/2021 Tham vấn y khoa : Bác sĩ Trần Thị Kim Ngọc. Viêm da cơ địa đang là một trong những bệnh da liễu phổ biến hàng đầu hiện nay, và hầu như tất cả các lứa tuổi đều có thể mắc phải. Tuy Hình 1. Cơ chế bệnh sinh của viêm đa rễ dây thần kinh. 1.3. Mô bệnh học. Khởi đầu là các tổn thương thoái hóa bao myelin, phân hoá bao Schawann, nút Ranvier, các sợi trục và tổn thương tế bào thần kinh. và tổn thương ngược chiều lên thân của tế bào thần kinh kèm theo hiện ĐỊNH NGHĨA, DỊCH TỄ HỌC: - Viêm da cơ, viêm đa cơ (Dermatomyositis and polymyositis) là một nhóm bệnh lý viêm cơ biểu hiện bởi tình trạng yếu cơ. Khi chỉ có biểu hiện ở cơ gọi là viêm đa cơ, khi kèm theo tổn thương ở da gọi là viêm da cơ. - Bệnh có thể gặp ở mọi lứa Vay Tiền Nhanh. Viêm cơ tự miễn dịch được đặc trưng bởi các tổn thương viêm và thoái hóa ở cơ viêm đa cơ, bệnh cơ qua trung gian miễn dịch hoại tử hoặc ở da và cơ viêm da cơ. Các biểu hiện bao gồm yếu cơ đối xứng 2 bên, có thể kèm theo đau cơ, và tổ chức xơ thay thế tổ chức cơ, có thể có teo cơ, chủ yếu là tổn thương các cơ ở vùng gốc chi. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng và các bất thường về xét nghiệm về cơ bao gồm xét nghiệm creatine kinase, chụp MRI, điện cơ và sinh thiết cơ. Một số loại viêm cơ có biểu hiện ở phổi và tim. Điều trị bằng corticosteroid kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch và/hoặc truyền tĩnh mạch globulin miễn cơ tự miễn thường gặp ở nữ nhiều hơn nam với tỷ lệ 21. Tỷ lệ mắc bệnh ở người Da đen cao gấp 3 đến 4 lần so với người Da trắng. Bệnh có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng thường xảy ra nhất ở tuổi 40-60, hoặc ở trẻ em từ 5-15 tuổi. Thay đổi mô bệnh học bao gồm tổn thương và teo tế bào cơ, với nhiều mức độ viêm khác nhau. Các cơ ở bàn tay, bàn chân và mặt ít bị ảnh hưởng hơn so các nhóm cơ khác của hệ thống vận động. Tổn thương của các cơ ở vùng hầu họng và thự quản trên và đôi khi của cơ tim có thể gây giảm chức năng của các cơ quan đó. Tình trạng viêm có thể xảy ra ở các khớp và phổi, đặc biệt ở những bệnh nhân có kháng thể kháng da cơ có đặc trưng bởi sự lắng đọng các phức hợp miễn dịch ở mạch máu và được coi là một bệnh lý mạch máu qua trung gian bổ thể. Ngược lại, viêm đa cơ được đặc trưng bởi tổn thương cơ trực tiếp qua trung gian tế bào T, và bệnh cơ hoại tử qua trung gian miễn dịch được đặc trưng bởi thâm nhiễm chiếm ưu thế đại thực bào và bệnh thực bào cơ. Viêm cơ tự miễn có thể được phân thành 4 nhóm, chủ yếu dựa trên mô bệnh học và triệu chứng lâm sàng Viêm đa cơViêm da cơBệnh lý cơ hoại tử qua trung gian miễn dịchViêm cơ thể vùi Viêm da cơ có thể được phân biệt với viêm đa cơ bằng các dấu hiệu da đặc trưng của viêm da cơxem Triệu chứng và Dấu hiệu Triệu chứng và Dấu hiệu Viêm cơ tự miễn dịch được đặc trưng bởi các tổn thương viêm và thoái hóa ở cơ viêm đa cơ, bệnh cơ qua trung gian miễn dịch hoại tử hoặc ở da và cơ viêm da cơ. Các biểu hiện bao gồm yếu cơ... đọc thêm . Hình ảnh mô bệnh học cơ cũng khác nhau. Viêm da cơ và viêm đa cơ có thể biểu hiện như các bệnh cơ đơn thuần hoặc như một phần của hội chứng kháng synthetase có thể liên quan đến viêm khớp thường là viêm khớp không bào mòn, sốt, bệnh phổi kẽ Tổng quan về bệnh phổi kẽ Bệnh phổi kẽ là một nhóm rối loạn không đồng nhất được đặc trưng bởi sự dày lên của vách phế nang, tăng sinh bào nguyên bào sợi, sự lắng đọng collagen, và nếu quá trình này vẫn không được kiểm... đọc thêm , tăng sinh keratin ở bên quay của các ngón tay bàn tay của người thợ cơ khí và Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud là sự co thắt mạch của bàn tay khi gặp lạnh hoặc stress tâm lý, gây khó chịu và thay đổi màu sắc nhợt, xanh, ban đỏ hoặc kết hợp ở một hay nhiều ngón tay. Thỉnh thoảng, các... đọc thêm .Viêm cơ toàn thân gây yếu cơ ở phần gần của chân, nhưng thường liên quan đến các cơ ở phần xa ví dụ cơ bàn tay và bàn chân thường kèm theo teo cơ. Bệnh phát triển ở độ tuổi lớn hơn, tiến triển chậm hơn và thường không đáp ứng với liệu pháp ức chế miễn dịch. Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh viêm cơ tự miễn dịch Khởi phát của bệnh viêm cơ tự miễn có thể là cấp tính đặc biệt ở trẻ em hoặc âm thầm đặc biệt ở người lớn. Đau nhiều khớp, hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud Hội chứng Raynaud là sự co thắt mạch của bàn tay khi gặp lạnh hoặc stress tâm lý, gây khó chịu và thay đổi màu sắc nhợt, xanh, ban đỏ hoặc kết hợp ở một hay nhiều ngón tay. Thỉnh thoảng, các... đọc thêm , khó nuốt Khó nuốt Khó nuốt là tình trạng khó khăn khi nuốt. Tình trạng này xuất phát từ quá trình vận chuyển đồ lỏng, đồ đặc, hoặc cả hai từ họng đến dạ dày bị đình trệ. Không nên nhầm lẫn khó nuốt với cảm giác... đọc thêm , triệu chứng phổi ho, khó thở và các triệu chứng toàn thân sốt cao, mệt mỏi, gầy sút cân cũng có thể có. Các dấu hiệu tiên lượng nặng bao gồm khó nuốt, khàn tiếng, và/hoặc yếu cơ cơ có thể tiến triển trong vài tuần tới vài tháng. Tuy nhiên, phải tới khi 50% số lượng sợi cơ bị phá hủy mới gây ra triệu chứng yếu cơ ví dụ, yếu cơ cho thấy tình trạng viêm cơ đang tiến triển. Bệnh nhân có thể khó khăn khi nâng cánh tay cao lên trên vai, leo lên bậc thang, hoặc đứng lên từ vị trí ngồi. Đôi khi có triệu chứng đau cơ và teo cơ. Bệnh nhân có thể cần phải sử dụng xe lăn hoặc nằm liệt giường vì yếu cơ vùng đai chậu và đai vai. Các cơ gập cổ có thể bị ảnh hưởng nặng, làm cho bệnh nhân không thể nhấc đầu lên khỏi gối. Yếu các cơ vùng hầu họng và thực quản trên có thể dẫn đến khó nuột và gây sặc. Các cơ của bàn tay, bàn chân và mặt không bị ảnh hưởng, ngoại trừ trong bệnh viêm cơ thể vùi trong bệnh này biểu hiện tổn thương ở các cơ ngọn chi, đặc trưng là các cơ ở bàn tay. Co rút chân tay hiếm khi phát hiện khớp bao gồm đau đa khớp hoặc viêm đa khớp có sưng và các đặc điểm khác của viêm khớp không biến dạng. Hay gặp hơn trong thể có kháng thể kháng Jo-1 hoặc các kháng thể kháng synthetase khác. Tổn thương nội tạng ngoại trừ vùng hầu họng và thực quản trên ít gặp hơn trong viêm cơ tự miễn khi so với các bệnh lý khớp khác ví dụ như lupus ban đỏ hệ thống Lupus ban đỏ hệ thống SLE Lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh lý viêm tự miễn mạn tính có biểu hiện bệnh ở nhiều hệ cơ quan, xảy ra chủ yếu ở phụ nữ trẻ tuổi. Các biểu hiện phổ biến có thể bao gồm đau khớp và viêm khớp... đọc thêm , xơ cứng bì hệ thống Xơ cứng bì toàn thể Xơ cứng bì toàn thể là bệnh mạn tính hiếm gặp chưa rõ nguyên nhân được đặc trưng bởi xơ hóa lan tỏa và tổn thương mạch ở da, khớp và các cơ quan nội tạng đặc biệt là thực quản, đường tiêu hóa... đọc thêm . Đôi khi, đặc biệt là ở những bệnh nhân có kháng thể kháng synthetase, bệnh phổi kẽ Tổng quan về bệnh phổi kẽ Bệnh phổi kẽ là một nhóm rối loạn không đồng nhất được đặc trưng bởi sự dày lên của vách phế nang, tăng sinh bào nguyên bào sợi, sự lắng đọng collagen, và nếu quá trình này vẫn không được kiểm... đọc thêm biểu hiện bằng khó thở và ho là biểu hiện nổi bật nhất. Rối loạn nhịp tim, đặc biệt là rối loạn dẫn truyền hoặc rối loạn chức năng tâm thất, có thể xảy ra. Triệu chứng tiêu hóa, hay gặp hơn ở trẻ em, là do viêm mạch máu và có thể bao gồm đau bụng, nôn máu, phân đen, và thủng ruột do thiếu đổi da, ở bệnh viêm da cơ, bao gồm các ban sẫm màu và hồng ban. Nhạy cảm với ánh nắng mặt trời và loét da cũng có thể gặp. Phù quanh hốc mắt với xuất hiện ban màu đỏ tím heliotrope rash tương đối đặc hiệu cho viêm da cơ. Ở những vùng khác, ban ngoài da có thể hơi gồ cao và mịn hoặc có vẩy; nó có thể xuất hiện ở trán, vùng chữ V ở cổ và vai, ngực và lưng, cẳng tay và cẳng chân, mặt ngoài đùi, khuỷu tay và khớp gối, mắt cá trong, và mặt mu của các khớp ngón gần và khớp bàn ngón tay sẩn Gottron – một trong các tổn thương da khá đặc hiệu. Vùng nến móng và cạnh móng có thể dày lên. Viêm da bóc vảy với nứt da có thể có ở mặt quay của các ngón tay. Lắng đọng canxi dưới da và cơ có thể gặp, đặc biệt ở trẻ em. Các tổn thương da nguyên phát thường khỏi hoàn toàn nhưng có thể để lại các tổn thương thứ phát ví dụ, sắc tố màu nâu, teo, tân mạch dai dẳng, sẹo. Ban tổn thương trên da đầu có thể giống như vảy nến và ngứa. Những thay đổi đặc trưng của da có thể xảy ra trong trường hợp không có bệnh về cơ, trong trường hợp đó, bệnh được gọi là viêm da cơ không di căn. Tiêu chuẩn lâm sàngSinh thiết cơ bắt buộcNên nghi ngờ viêm cơ tự miễn ở những bệnh nhân có yếu cơ vùng gốc chi kèm theo hoặc không có cứng cơ. Nên nghi ngờ viêm da cơ ở các bệnh nhân có triệu chứng của viêm cơ và những tổn thương da phù hợp với viêm da cơ. Để chẩn đoán viêm cơ tự miễn, yêu cầu có càng nhiều yếu tố trong 5 yếu tố sau Yếu cơ vùng gầnBan trên da đặc trưngTăng các men cơ trong huyết thanh nếu không tăng creatine kinase [CK], xét đến các men aminotranferase hoặc aldolase ít đặc hiệu hơn CK rất nhiềuĐiện cơ hoặc MRI có bất thường về cơThay đổi trên sinh thiết cơ xét nghiệm có giá trị xác định chẩn đoánĐể tăng độ nhạy của kết quả sinh thiết, mẫu sinh thiết phải được lấy từ cơ có một hoặc nhiều đặc điểm sau Có yếu cơ khi khám lâm sàngBiểu hiện phù cơ được xác định trên cơ đối xưng được phát hiện bất thường trên điện xét nghiệm có thể thay đổi tăng hoặc giảm tương ứng với các rối loạn nghi ngờ, cho phép đánh giá mức độ nặng, xác định các trường hợp chồng lấp và phát hiện các biến chứng. Nên kiểm tra các kháng thể. Kháng thể kháng nhân ANA dương tính ở 80% bệnh nhân. Nếu xét nghiệm ANA dương tính, xét nghiệm thêm cho các loại kháng thể cụ thể là rất quan trọng trong việc làm tăng nghi ngờ về một hội chứng chồng lấp. Các biểu hiện và diễn biến lâm sàng thường liên quan với các kháng thể đặc hiệu được mô tả trong . Mối liên hệ giữa các tự kháng thể này và sinh bệnh học còn chưa rõ ràng, mặc dù kháng thể kháng Jo-1 là chất chỉ điểm đặc hiệu cho tổn thương viêm phổi kẽ, viêm khớp và hội chứng Raynaud. Không có kháng thể đặc hiệu cho viêm đa cơ. Bằng chứng về việc tăng nguy cơ ung thư là tương đối mạnh đối với viêm da cơ và ít mạnh hơn đối với viêm đa cơ. Do đó, cần sàng lọc ung thư ở bệnh nhân ≥ 40 tuổi bị viêm da cơ hoặc bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị viêm đa cơ vì những bệnh nhân này thường có các bệnh ung thư mà bác sĩ ít nghĩ tới. Sàng lọc phải bao gồm khám lâm sàng vú, khung chậu và trực tràng với xét nghiệm máu; công thức máu toàn phần, xét nghiệm sinh hóa, chụp vú, phân tích nước tiểu, chụp X-quang phổi; và các xét nghiệm cần thiết khác dựa trên tuổi của bệnh nhân. Các thăm dò bổ sung khác dựa trên bệnh sử và kết quả khám lâm sàng. Một số khuyến cáo chụp CT ngực, bụng và khung chậu, nội soi đại tràng, đặc biệt ở bệnh nhân viêm da cơ. Không cần thiết phải sàng lọc ở bệnh nhân trẻ tuổi không có các triệu chứng ung thư. Lui bệnh trong thời gian dài thậm chí đạt được khỏi bệnh gặp ở 50% bệnh nhân dược điều trị trong vòng 5 năm, thường gặp hơn ở trẻ em. Tuy nhiên, tái phát có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tỷ lệ sống sau 5 năm là 75% và cao hơn ở trẻ em. Tử vong ở người lớn là do các yếu tố viêm cơ nặng và tiến triển, khó nuốt, suy dinh dưỡng, suy hô hấp do nhiễm trung phổi. Tử vong ở trẻ bị viêm da cơ thể có thể do viêm mạch ở ruột. Viêm da cơ và viêm đa cơ thường có liên quan với tăng nguy cơ ung thư. Ung thư, nếu có, thường xác định tiên lượng tổng thể. CorticosteroidThuốc ức chế miễn dịch ví dụ, methotrexate, azathioprine, mycophenolate mofetil, rituximab, tacrolimusTruyền globulin miễn dịchGiảm thiểu các hoạt động thể chất cho đến khi kiểm soát được viêm. Corticosteroid là thuốc được lựa chọn ban đầu. Đối với bệnh cấp tính, liều điều trị cho người lớn là prednisone 1 mg/kg thường khoảng 40 đến 60 mg lần một lần/ngày. Đối với những trường hợp bệnh nặng có khó nuốt hoặc yếu cơ hô hấp, điều trị thường bắt đầu với corticosteroid liều cao ví dụ, methylprednisolone 0,5 đến 1 g truyền tĩnh mạch một lần/ngày trong 3 đến 5 ngày. Các phép đo tuần tự của creatine kinase CK cung cấp hướng dẫn ban đầu tốt nhất về hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân bị teo cơ lan tỏa, nồng độ CK có thể ở mức bình thường mặc dù có viêm cơ mạn tính, hoạt động. Tổn thương cơ trên MRI hoặc nồng độ CK cao thường có thể giúp phân biệt viêm cơ với bệnh lý cơ do corticosteroid. Aldolase là một xét nghiệm thay thế, mặc dù nó ít đặc hiệu hơn CK nhưng đôi khi có thể dương tính ở những bệnh nhân viêm cơ có nồng độ CK bình thường. Khi nồng độ enzyme giảm xuống hoặc đạt mức bình thường ở nhiều bệnh nhân trong 6 đến 12 tuần, sau đó là sức bền cơ bắp được cải thiện, liều corticosteroid có thể giảm dần. Nếu nồng độ men cơ tăng trở lại, liều corticosteroid thường được tăng lên trong khi chờ đợi tác dụng đầy đủ của các loại thuốc khác. Mục tiêu tổng thể là nhanh chóng loại bỏ tình trạng viêm nhưng giảm thiểu việc tiếp xúc với corticosteroid trong thời gian dài, đó là lý do tại sao thuốc thứ hai thường là methotrexate, tacrolimus hoặc azathioprine là thuốc không corticosteroid bước đầu được bắt đầu dùng cùng lúc với corticosteroid hoặc ngay sau đó để prednisone có thể được giảm dần đến liều tối đa 5 mg mỗi ngày, lý tưởng nhất là trong khoảng 6 tháng. Globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch là một lựa chọn tốt cho những bệnh nhân không đáp ứng nhanh với liệu pháp, phát triển các biến chứng nhiễm trùng với corticosteroid liều cao và các chất ức chế miễn dịch khác, hoặc những người đang hóa trị liệu. Một số chuyên gia có thể kết hợp 3 thuốc ở những bệnh nhân nặng hoặc khi có độc tính corticosteroid. Trẻ em cần liều điều trị liều prednisone ban đầu từ 30 đến 60 mg/m2 một lần một ngày. Đôi khi, bệnh nhân được điều trị với corticosteroid liều cao kéo dài có thể tăng yếu cơ sau đáp ứng ban đầu vì có thể mắc bệnh lý cơ chồng lấp, không đau do corticosteroid. Ở những bệnh nhân này, CK vẫn bình thường mặc cơ yếu cơ liên quan với ung thư thường kháng trị với corticosteroid. Viêm cơ liên quan đến ung thư có thể đạt được lui bệnh nếu khối u được lấy đi. Những người có bệnh tự miễn thường có nguy cơ cao bị chứng xơ vữa động mạch Chẩn đoán Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc mảng xơ vữa xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn. Các mảng chứa lipid, tế bào viêm, tế bào cơ trơn và mô liên kết. Các... đọc thêm và cần được theo dõi chặt chẽ. Bệnh nhân điều trị corticosteroid kéo dài nên được dự phòng loãng xương Phòng ngừa Loãng xương là bệnh xương chuyển hóa tiến triển làm giảm mật độ chất khoáng trong xương khối lượng xương trên một đơn vị thể tích, kèm suy giảm cấu trúc xương. Xương yếu dẫn đến gãy xương... đọc thêm . Nếu sử dụng liệu pháp ức chế miễn dịch kết hợp, bệnh nhân nên được điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội, chẳng hạn như Pneumocystis jirovecii xem phòng ngừa viêm phổi do Pneumocystis jirovecii Phòng ngừa Pneumocystis jirovecii là nguyên nhân phổ biến của viêm phổi ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch, đặc biệt là ở những người bị nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người HIV và ở... đọc thêm và vắc-xin chống nhiễm trùng thông thường ví dụ viêm phổi liên cầu Tổng quan về Viêm phổi Viêm phổi là tình trạng viêm cấp tính của phổi do nhiễm trùng. Chẩn đoán ban đầu thường dựa trên chụp X-quang phổi và các dấu hiệu lâm sàng. Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị, các biện pháp... đọc thêm , cúm Cúm Cúm là một bệnh nhiễm trùng hô hấp do vi rút gây sốt, sổ mũi, ho, đau đầu và mệt mỏi. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra trong các đợt dịch bộc phát theo mùa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy... đọc thêm , COVID-19 Vắc-xin phòng COVID-19 Vắc xin COVID-19 cung cấp sự bảo vệ chống lại COVID-19, căn bệnh do nhiễm vi rút SARS-CoV-2 gây ra. Tiêm vắc xin là chiến lược hiệu quả nhất để ngăn ngừa bệnh nặng và tử vong do nhiễm SARS-CoV-2... đọc thêm . Yếu cơ do viêm cơ thường gặp ở các cơ gốc tím quanh hốc mắt và sẩn Gottron là tổn thương đặc hiệu cho viêm da thiết lập chẩn đoán, hãy tìm phát ban đặc trưng, yếu cơ, tăng nồng độ creatine kinase và thay đổi cơ trên điện cơ đồ hoặc MRI. Ngoại trừ bệnh nhân có những tổn thương da đặc trưng, phải làm sinh thiết cơ để xác định chẩn xét sàng lọc ung thư ở bệnh nhân ≥ 40 tuổi bị viêm da cơ và bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị viêm đa trị bằng corticosteroid và các thuốc ức chế miễn dịch khác. Nguồn chủ đề Viêm đa vi mạch là bệnh tổn thương viêm mạch hoại tử hệ thống không do lắng đọng globulin miễn dịch và chủ yếu tổn thương ở các mạch máu nhỏ. Trước kia được gọi là hội chứng thận phổi với viêm cầu thận tiến triển nhanh và xuất huyết phế nang, nhưng đặc điểm của bệnh phụ thuộc vào cơ quan bị tổn thương. Chẩn đoán dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và đôi khi cần sinh thiết để khẳng định chẩn đoán. Điều trị phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh, bao gồm corticosteroid và thuốc ức chế miễn dịch. Viêm đa vi mạch MPA microscopic polyangiitis rất hiếm gặp khoảng 13 đến 19 trường hợp/triệu người. Sinh bệnh học không rõ. MPA gây tổn thương các mạch máu nhỏ và không có lắng đọng miễn dịch ví dụ, các lắng đọng globulin miễn dịch không thấy trên mẫu bệnh phẩm sinh thiết, tương tự trong u hạt bạch cầu ái toan kèm theo viêm đa mạch U hạt với viêm đa mạch GPA U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm GPA và u hạt bạch cầu ưa axit và viêm đa mạch U hạt bạch cầu ái toan kèm theo viêm đa mạch EGPA U hạt bạch cầu ái toan kèm theo viêm đa mạch là một bệnh viêm mạch hoại tử hệ thống của các mạch máu nhỏ và trung bình, đặc trưng bởi các u hạt ngoài mạch, tăng bạch cầu ái toan và sự xâm nhập... đọc thêm EGPA, khác với các bệnh lý viêm các mạch máu nhỏ do phức hợp miễn dịch như viêm mạch do IgA Viêm mạch do Immunoglobulin A IgAV Viêm mạch do IgA trước đây gọi là xuất huyết Schonlein Henoch thường ảnh hưởng tới các mạch máu nhỏ. Bệnh thường gặp ở trẻ em. Các biểu hiện thường gặp bao gồm sẩn xuất huyết, đau khớp, các... đọc thêm - thường được gọi là xuất huyết Henoch-Schönlein và viêm mạch ngoài da Viêm mạch ngoài da Viêm mạch ngoài da liên quan tới tình trạng viêm các mạch nhỏ hoặc trung bình ở trong da và mô dưới da nhưng không phải ở các cơ quan nội tạng. Viêm mạch ngoài da có thể chỉ giới hạn tổn thương... đọc thêm các mạch máu nhỏ. MPA tổn thương chủ yếu ở các mạch máu nhỏ bao gồm mao mạch và các tiểu tĩnh mạch sau mao mạch, không giống như viêm nút quanh động mạch Viêm nút quanh động mạch PAN Viêm nút quanh động mạch là bệnh viêm mạch hoại tử hệ thống với tổn thương điển hình ở các động mạch vừa và đôi khi tổn thương cả các động mạch nhỏ, dẫn tới thiếu máu các cơ quan mà nó chi phối... đọc thêm , ảnh hưởng tới các động mạch kích thước trung bình. Các tài liệu cũ hơn trước năm 1994 không phân biệt rõ ràng giữa bệnh viêm nút quanh động mạch và MPA - xuất huyết phế nang và viêm cầu thận có thể xảy ra ở MPA nhưng không gặp trong viêm nút quanh động mạch. Ít trường hợp, MPA có thể xuất hiện do viêm gan hiện lâm sàng giống với u hạt với viêm đa mạch ngoại trừ những tổn thương phá hủy dạng hạt thường không có ví dụ các tổn thương dạng hốc ở phổi và các triệu chứng đường hô hấp trên thường nhẹ hoặc không có triệu chứng. Trong cả hai bệnh, kháng thể kháng bào tương của bạch cầu trung tính ANCA đều có thể dương tính. Triệu chứng và Dấu hiệu của MPA Các triệu chứng tiền triệu thường gặp như sốt, sút cân, đau cơ và đau khớp. Các triệu chứng khác phụ thuộc vào cơ quan và hệ thống bị ảnh hưởng Bệnh thận Tổn thương thận có thể gặp lên tới 90% số bệnh nhân. Xuất hiện hồng cầu niệu, protein niệu có khi > 3 g/24 giờ và trụ hồng cầu. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, suy thận xuất hiện nhanh sau Khoảng 1/3 bệnh nhân có ban xuất huyết ngoài da tại thời điểm chẩn đoán. Có thể gặp tắc mạch và xuất huyết nhỏ giường móng, hiếm khi gây thiếu máu đầu chi. Hô hấp Nếu phổi bị tổn thương, có thể gây xuất huyết phế nang Xuất huyết phế nang lan tỏa Sự xuất huyết phế nang lan tỏa là xuất huyết phổi dai dẳng hoặc tái phát. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng rối loạn tự miễn là phổ biến nhất. Hầu hết các bệnh nhân có khó thở, ho, ho ra máu,... đọc thêm và sau đó là xơ phổi. Khó thở tiến triển nhanh, thiếu máu, có thể có hoặc không có ho máu, tổn thương thâm nhiễm thành đám cả hai trường phổi quan sát được trên phim X-quang có thể là do xuất huyết phế nang, cần được xử trí cấp cứu và điều trị ngay lập tức. Một số bệnh nhân mắc MPA ban đầu có thể biểu hiện bệnh phổi kẽ. Các triệu chứng nhẹ như viêm mũi, chảy máu cam, viêm xoang có thể gặp; tuy nhiên, nếu có các triệu chứng nghiêm trọng của đường ho hấp trên, nguyên nhân có thể là do bệnh u hạt có viêm đa tiêu hóa GI Các triệu chứng đường tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy, đại tiện phân có Tim ít khi bị tổn thương. Các dấu hiệu lâm sàngXét nghiệm ANCA và các xét nghiệm thường thiếtCần nghĩ tới viêm đa vi mạch ở những bệnh nhân có các triệu chứng sốt, sút cân, đau khớp, đau bụng, xuất huyết phế nang, hội chứng viêm cầu thận mới xuất hiện, bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ mới xuất hiện hoặc bệnh lý đa dây thần kinh mà không giải thích được. Làm các xét nghiệm và có thể chụp X-quang, nhưng chẩn đoán xác định dựa vào sinh xét nghiệm bao gồm công thức máu, tốc độ máu lắng ESR, protein phản ứng C, xét nghiệm nước tiểu, creatinine huyết thanh và xét nghiệm kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính ANCA. ESR, mức protein phản ứng C, số lượng bạch cầu và tiểu cầu tăng phản ánh tình trạng viêm hệ thống. Thường có thiếu máu do bệnh lý mạn tính. Hematocrit giảm nhanh gợi ý xuất huyết phế nang hoặc xuất huyết đường tiêu hóa. Xét nghiệm nước tiểu tìm hồng cầu, protein niệu, các trụ tế bào và xét nghiệm creatinin huyết thanh nên được kiểm tra định kỳ để kiểm tra tổn thương miễn dịch huỳnh quang có thể phát hiện ANCA; sau đó làm xét nghiệm ELISA để tìm các kháng thể đặc hiệu. Ít nhất 60% bệnh nhân có ANCA dương tính, thường là ANCA cạnh nhân p-ANCA với các kháng thể kháng sinh thiết mô tổn thương dễ tiếp cận nhất để xác định chẩn đoán. Sinh thiết thận có thể phát hiện tổn thương viêm cầu thận hoại tử ổ cục bộ không có lắng đọng miễn dịch với hoại tử xơ hóa thành mao mạch cầu thận, dẫn tới sự hình thành các liềm tế bệnh nhân có triệu chứng về hô hấp, cần chụp ngực để phát hiện các tổn thương thâm nhiễm. Tổn thương thâm nhiễm từng đám cả hai trường phổi gợi ý xuất huyết phế nang ở những bệnh nhân không có ho ra máu. CT nhạy hơn nhiều so với X-quang. Nếu bệnh nhân khó thở và có tổn thương thâm nhiễm cả hai phế trường, cần nội soi phế quản ngay lập tức để kiểm tra tình trạng xuất huyết phế nang và loại trừ nhiễm khuẩn. Máu xuất hiện ở cả hai trường phổi và tất cả các phế quản, càng vào sâu, máu chảy càng nhiều cho thấy tổn thương xuất huyết phế nang đang hoạt động. Các đại thực bào chứa Hemosiderin xuất hiện trong vòng 24 đến 72 giờ sau khi khởi phát triệu chứng xuất huyết và có thể tồn tại kéo dài đến 2 tháng. Khi các cơ quan quan trọng bị tổn thương, sử dụng corticosteroid liều cao cộng với cyclophosphamide hoặc rituximabĐối với những trường hợp ít nghiêm trọng hơn, sử dụng corticosteroid kết hợp với methotrexateCác trường hợp ít nặng hơn có thể được điều trị bằng corticosteroid kết hợp với methotrexate. Viêm đa vi động mạch là bệnh viêm mạch nhỏ hiếm chứng rất đa dạng và có thể có xuất huyết phế nang, bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ và viêm cầu đoán xác định dựa vào xét nghiệm ANCA và sinh trị với corticosteroid kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch ví dụ, cyclophosphamide hoặc rituximab trong trường hợp bệnh nặng. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Bệnh viêm đa cơ Dermatomyositis là bệnh có viêm cơ kèm theo tổn thương da hoặc không. Viêm đa cơ là bệnh tự miễn và đáp ứng với thuốc ức chế miễn dịch. Bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, thường gặp ở lứa tuổi thiếu niên 10-15 tuổi và tuổi trung niên 45-60 tuổi, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới. Tỷ lệ mắc bệnh viêm đa cơ trong cộng đồng ước tính 5-10 trường hợp/1 triệu dân. Chẩn đoán xác địnhTiêu chuẩn chẩn đoán của Tanimoto và cộng sự năm 1995. Tiêu chuẩn này có độ nhạy 98,9% và độ đặc hiệu 95,2%Chẩn đoán xác định bệnh viêm đa cơ khi có ít nhất 4 trong 8 triệu chứng sauĐau cơ do viêm gây nên hoặc đau có tính chất tự phát;Yếu cơ vùng gốc chi;Tăng nồng độ CK creatinine kinase trong huyết thanh hoặc aldolase;Điện cơ có các hiện tượng biến đổi nguồn gốc cơ thời gian ngắn, đơn vị vận động nhiều pha với các rung giật tự phát;Khi sinh thiết cơ xuất hiện hình ảnh thâm nhiễm cơ vân kèm theo dấu hiệu thoái hóa và hoại tử sợi cơ thực bào hoạt động, nhân trung tâm hoặc có các bằng chứng hoạt động;Viêm khớp không có hình ảnh bị bào mòn trên X quang, không có hủy khớp hoặc đau khớp;Các triệu chứng toàn thân sốt nhẹ trên 370 C, CRP tăng hoặc tốc độ máu lắng tăng > 20 mm/h bằng phương pháp Westergren;Kháng thể kháng Jo-1 dương tính; Người bệnh xuất hiện đau cơ Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh viêm đa cơ của Bohan và Peter năm 1975, gồm 5 yếu tốYếu cơ vùng gốc chi hai bên đối xứng;Sinh thiết cơ thấy xuất hiện triệu chứng của bệnh viêm cơ;Men cơ trong huyết thanh tăng;Điện cơ có dấu hiệu của viêm cơTổn thương ở da điển hình của bệnh cơ do viêm ban Gottron, ban màu đỏ hoặc tím ở vùng mi mắt, ban đỏ hình chữ V ở cổ và ngực, bàn tay thợ cơ đoán xác định viêm đa cơChẩn đoán chắc chắn viêm đa cơ khi có tất cả 4 yếu tố đầu đoán gần như chắc chắn viêm đa cơ khi có 3/4 yếu tố đầu tiênChẩn đoán nghi ngờ viêm đa cơ khi có 2/4 yếu tố đầu tiên Sinh thiết cơ trên người bệnh viêm cơ Chẩn đoán phân biệtBệnh viêm đa cơ đôi khi phải chẩn đoán phân biệt với các tình trạng bệnh lý có gây biểu hiện yếu cơYếu cơ mạn tính hoặc bán cấp nguyên nhân do các bệnh lý thần kinh tổn thương tủy, xơ hóa cột bên, loạn dưỡng cơ, nhược cơ... Các dấu hiệu thần kinh vận động, điện cơ và sinh thiết cơ có thể giúp chẩn đoán phân biệt bệnh viêm đa cơ với các tình trạng bệnh lý cơ cấp tính trong các bệnh viêm đa cơ hội chứng Guillain-Barré, viêm tủy cắt ngang, nhiễm độc thần kinh, viêm cơ do virus. Ở các bệnh lý này thường có dấu hiệu co rút cơ, khai thác tiền sử, khám cảm giác, các xét nghiệm độc tố và vi sinh có thể giúp chẩn đoán phân cơ do thuốc Khai thác kỹ biểu hiện lâm sàng bệnh viêm đa cơ đặc biệt tiền sử dùng thuốc có thể giúp chẩn đoán phân cơ do nguyên nhân đau cơ, đau khớp trong một số bệnh lý đau cơ do thấp, viêm khớp có thể gây yếu khám lâm sàng, các xét nghiệm về viêm, miễn dịch đặc biệt kết quả sinh thiết cơ bình thường giúp chẩn đoán phân biệt cơ trong các bệnh lý nội tiết và chuyển hóa như cường hoặc suy tuyến giáp, cường vỏ thượng thận. Chẩn đoán phân biệt viêm đa cơ dựa vào các kết quả xét nghiệm học môn nội tiết. Cần chẩn đoán phân biệt với suy tuyến giáp 2. Điều trị bệnh viêm đa cơ Nguyên tắc điều trị bệnh viêm đa cơĐiều trị thuốc kết hợp với phục hồi chức năng hợp corticoid và các thuốc điều trị cơ bản methotrexat hoặc azathioprin trong các thể thông thường hoặc cyclophosphamid trong các thể kháng điều trị hoặc có tổn thương phổi kẽ. Kết hợp truyền tĩnh mạch immunoglobulin có hiệu quả tuy giá thành tránh các biến chứng do sát các bệnh ung thư kết hợp, đặc biệt ung thư cơ quan sinh dục ở Điều trị bằng thuốcCorticoid là thuốc điều trị chính trong bệnh viêm đa cơ, thường kết hợp với những thuốc điều trị cơ bản DMARD.Corticoid đường uống, với liều khởi đầu 1-2 mg/kg/ngày, dùng 1 lần/ngày hoặc chia 3- 4 lần/ngày nếu dùng 1 lần/ngày không kiểm soát được bệnh. Duy trì liều cao đến khi các triệu chứng lâm sàng của bệnh thuyên giảm và nồng độ enzym CK trong huyết thanh giảm trở về mức bình thường, trung bình khoảng 6- 8 tuần. Sau đó giảm liều dần, điều trị liều duy trì trung bình 5- 10mg/ truyền tĩnh mạch liều cao truyền tĩnh mạch mỗi ngày mg x 3 ngày. Chỉ định khi viêm đa cơ nặng, tiến triển cấp tính, có tổn thương tim mạch hoặc viêm phổi kẽ nặng. Corticoid đường uống được sử dụng điều trị bệnh Các thuốc điều trị cơ bản DMARD thường kết hợp với corticoid trong điều trị bệnh viêm đa cơ. Nhóm này bao gồm methotrexate, azathioprine, định các thể viêm đa cơ thông dùng Dùng đường uống, liều 7,5- 15mg mỗi tuần tuần, có thể tăng liều lên đến 20mg mỗi tuần tùy theo đáp ứng của bệnh tác dụng không mong muốn suy tế bào gan, suy tủy xương, viêm phổi. Hàng tháng cần theo dõi tế bào máu ngoại vi và enzym gan khi dùng thuốc kéo định khi không đáp ứng với điều trị với dùng Dùng đường uống với liều khởi đầu 1,5- 2mg/kg/ngày, liều trung bình 150- 200mg/ngày. Giảm liều khi các triệu chứng lâm sàng thuyên định trong các thể kháng điều trị với methotrexat hoặc azathioprin hoặc trong trường hợp có tổn thương phổi dùng mỗi tháng một lần truyền tĩnh mạch liều 500mg- 1000 mg; trong 6 tháng liên tục; tiếp theo, có thể duy trì 03 tháng một liều như trên. Có thể dùng thuốc theo đường uống với liều dùng 1- 2 mg/kg/ngày, liều tối đa 150 mg/ngày song nguy cơ ung thư bàng quang dụng không mong muốn viêm bàng quang chảy máu, suy tế bào gan, suy tủy xương, rụng tóc, cảm giác nóng bừng ở đầu trong thời gian truyền. Thuốc tiêm Cyclophosphamide Các biện pháp khácTruyền tĩnh mạch immunoglobulin IVIGChỉ định điều trị hỗ trợ trong trường hợp viêm đa cơ nặng, không đáp ứng với các phác đồ thông thường. Kết hợp với phương pháp điều trị nêu dùng 1-2 g/kg/ngày, chia truyền từ 2-5 ngày mỗi 04 tuần. Ngừng truyền khi các triệu chứng của bệnh được cải huyết tương PlasmapheresisChỉ định điều trị hỗ trợ trong trường hợp viêm đa cơ nặng. Kết hợp với các biện pháp điều trị nêu đa cơ gây ra những thương tổn ở da và cơ cho người bệnh đồng thời gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời. Để quá trình điều trị đạt được hiệu quả cao, bạn nên thăm khám và phát hiện bệnh THÊMViêm cơ nhiễm khuẩn Những điều cần biếtTìm hiểu thông tin về viêm cơ, viêm đa cơ, viêm da cơNhiễm trùng nào dẫn đến viêm cơ? XEM THÊM Thuốc HCQ trong điều trị da liễu Kỹ thuật thay huyết tương trong điều trị bệnh nhược cơ Chẩn đoán và điều trị nhược cơ Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da tái phát mạn tính với cơ chế bệnh sinh phức tạp liên quan đến tính nhạy cảm di truyền, rối loạn chức năng miễn dịch và biểu bì, và các yếu tố môi trường. Ngứa là triệu chứng chính; tổn thương da từ ban đỏ mức độ nhẹ đến lichen hóa dày da mức độ nặng đến chứng đỏ da. Chẩn đoán dựa vào hỏi bệnh và thăm khám. Điều trị bao gồm tư vấn về cách chăm sóc da thích hợp, tránh các tác nhân kích thích, bôi corticosteroid và thuốc ức chế miễn dịch. Kiểm soát ngứa và bội nhiễm cũng rất quan trọng. Những trường hợp nặng có thể phải điều trị ức chế miễn dịch toàn thân. Bệnh viêm da cơ địa ở trẻ em thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thành. Viêm da dị ứng chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em ở khu vực thành thị hoặc các nước có thu nhập cao và tỷ lệ mắc bệnh đã tăng lên trong 30 năm qua; có tới 20% số trẻ em và 10% số người lớn ở các nước có thu nhập cao bị ảnh hưởng. Hầu hết những người bị rối loạn phát triển nó trước 5 tuổi, nhiều người trong số họ trước 1 tuổi; tuy nhiên, viêm da dị ứng thậm chí có thể bắt đầu vào cuối tuổi trưởng thành. Giả thuyết vệ sinh chưa được chứng minh gợi ý giảm tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh sớm ở trẻ em tức là do chế độ vệ sinh sạch sẽ hơn ở nhà có thể làm tăng sự phát triển của bệnh thể tạng và tự miễn với các protein tự thân. Nhiều bệnh nhân hoặc thành viên gia đình của họ bị viêm da dị ứng cũng bị hen suyễn Hen Hen suyễn là một bệnh viêm đường hô hấp gây ra bởi một loạt kích thích dẫn đến co thắt phế quản hồi phục hoàn toàn hoặc một phần. Triệu chứng và dấu hiệu bao gồm khó thở, tức ngực, ho, thở khò... đọc thêm dị ứng và/hoặc quá mẫn cảm kiểu tức thì biểu hiện, ví dụ như viêm kết mạc dị ứng theo mùa hoặc lâu năm. Bộ ba bệnh viêm da dị ứng, viêm kết mạc dị ứng và bệnh hen suyễn được gọi là tạng dị ứng hoặc tạng cơ địa. Các đặc điểm da liễu khác của cơ địa dị ứng bao gồm khô da Khô da Xeroderma là thuật ngữ chỉ khô da không do di truyền cũng không liên quan đến bất thường hệ thống. Khô da là hậu quả của sự bong ra chậm trễ của các tế bào da trên bề mặt da, tạo ra vẩy da trắng... đọc thêm , bệnh vảy cá Vẩy cá Bệnh vẩy cá làm khô da, bong da, từ nhẹ tới nặng nhưng luôn gây khó chịu cho người mắc bệnh vẩy cá cũng có thể là dấu hiệu của bệnh hệ thống. Vẩy cá cũng có thể là dấu hiệu của bệnh toàn thân... đọc thêm /lòng bàn tay nhiều đường lẻ nghĩa là các đường da nổi rõ hơn trên lòng bàn tay, dày sừng nang lông Dày sừng nang lông Dày sừng nang lông là một rối loạn sừng hóa, trong đó các nút sừng điền vào lỗ của nang lông. Dày sừng nang lông là bệnh thường gặp. Nguyên nhân không rõ, nhưng thường có di truyền trội trên... đọc thêm , nếp gấp da dưới hốc mắt nếp gấp Dennie-Morgan, lông mày bên mỏng hơn dấu hiệu Hertoghe, không dung nạp len kích ứng và ngứa do da tiếp xúc với len, da vẽ nổi co mạch, làm trắng da khi gãi và tăng mất nước qua biểu bì ở da không bị thương tổn cũng như ở da bị thương tổn. Tất cả những yếu tố sau đây góp phần vào sự phát triển của viêm da cơ địa Yếu tố di truyềnRối loạn chức năng hàng rào thượng bìCơ chế miễn dịchCác tác nhân kích hoạt từ môi trườngCác gen liên quan đến viêm da cơ địa là những protein mã hoá biểu bì và các protein miễn dịch. Một yếu tố chính dẫn đến viêm da cơ địa là sự tồn tại đột biến mất chức năng trong gen mã hóa cho protein filaggrin ở nhiều bệnh nhân 1 Tài liệu tham khảo về sinh lý bệnh Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da tái phát mạn tính với cơ chế bệnh sinh phức tạp liên quan đến tính nhạy cảm di truyền, rối loạn chức năng miễn dịch và biểu bì, và các yếu tố môi trường. Ngứa... đọc thêm . Filaggrin là một thành phần của lớp vỏ tế bào được hóa sừng được sản sinh ra bằng cách biệt hóa các tế bào sừng. Điều quan trọng cuối cùng là xây dựng hàng rào hút ẩm của lớp sừng còn được gọi là yếu tố giữ ẩm tự nhiên. Khoảng 10% dân số châu Âu là dị hợp tử mang đột biến filaggrin mất chức năng. Sự hiện diện của các đột biến này cũng như các đột biến sao chép intragenic nhiều hơn làm tăng nguy cơ viêm da cơ địa nặng hơn và nồng độ IgE cao hơn. Các đột biến Filaggrin cũng liên quan đến dị ứng đậu phộng và hen suyễn, ngay cả khi không bị viêm da cơ địa. Những hiểu biết phân tử gần đây đưa ra những hiểu biết mới về viêm da cơ địa và cách viêm da, một dạng quá mẫn cảm chậm qua trung gian tế bào T, liên quan đến các tình trạng dị ứng với dạng quá mẫn cảm tức thì như hen suyễn và viêm mũi dị ứng sốt cỏ khô. Khiếm khuyết hàng rào biểu bì da do đột biến filaggrin gây phát sinh bệnh khô da và khuynh hướng kích ứng da. Điều này dẫn đến biểu hiện của viêm da cơ địa, không phải là phản ứng dị ứng. Ngược lại, viêm da là một dạng quá mẫn cảm chậm qua trung gian tế bào T và bao gồm thành phần chi phối Th2 trong da. Quá mẫn cảm này điều hòa giảm các peptide kháng khuẩn ví dụ beta-defensin, điều này giải thích tại sao bệnh nhân bị viêm da cơ địa dễ bị nhiễm trùng da do vi khuẩn và vi rút. Tình trạng gia tăng xâm nhập của các chất gây kích ứng và các chất dị ứng da cũng dẫn đến tình trạng viêm Th2 là chủ yếu, điều này cũng thúc đẩy sản sinh IgE và dẫn đến các chứng quá mẫn tức thì. Tuy nhiên, do cơ chế chính của viêm da cơ địa là miễn dịch qua trung gian tế bào bị trì hoãn, việc tránh các chất gây dị ứng tức thời ví dụ phấn hoa, mạt bụi thường không cải thiện được tình trạng viêm da cơ địa. Mặc dù quá mẫn loại tức thời ví dụ, hen suyễn, viêm mũi dị ứng là kết quả của khiếm khuyết hàng rào da, chúng không gây ra tình trạng viêm da cơ địa qua trung gian tế bào T. Ở những bệnh nhân có tạng dị ứng, viêm da cơ địa thường có trước viêm mũi kết mạc do dị ứng và hen suyễn. Đôi khi, trình tự này được gọi là "chặng đường dị ứng" và xảy ra do khiếm khuyết hàng rào da là sự thiếu hụt chính trong các bệnh dị ứng. 1. Brown SJ, McLean WH One remarkable molecule Filaggrin. J Invest Dermatol 1323 Pt 2751–762, 2012. doi Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm da cơ địa Bệnh viêm da cơ địa thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh, sớm nhất là 3 tháng tuổi. Ở giai đoạn cấp tính, tổn thương là các mảng hoặc mảng có vẩy, đỏ, dày, ngứa dữ dội, có thể bị xước do gãi. Ở giai đoạn mạn tính, trầy xước và chà xát tạo ra những tổn thương khô, lichen hóa trên bố tổn thương phụ thuộc vào tuổi. Ở trẻ sơ sinh, tổn thương đặc trưng xảy ra ở mặt, da đầu, cổ, mí mắt và mặt duỗi của các chi. Ở trẻ lớn và người lớn, các tổn thương xảy ra trên các mặt gấp như cổ, khuỷu tay, khoeo chân. Các tác nhân môi trường thường gặp khởi phát triệu chứng gồm Tắm hoặc giặt quá nhiềuXà phòng loại mạnh Staphylococcus aureus cư trú ở daMồ hôiVải thô và len Biến chứng của viêm da cơ địa Bệnh nhân cơ địa dị ứng cũng dễ bị nhiễm trùng da do vi rút khác ví dụ, mụn cóc thông thường Nhiễm virus Herpes simplex HSV Herpes simplex Herpes vi rút herpeses loại 1 và 2 thường gây nhiễm trùng tái phát ảnh hưởng đến da, miệng, môi, mắt và bộ phận sinh dục. Các bệnh nhiễm trùng nặng thường gặp gồm viêm não,... đọc thêm , u mềm lây U mềm lây U mềm lây có đặc trưng là các sẩn tròn, màu hồng, mịn, nhẵn bóng, tập trung thành đám, hoặc sẩn giống ngọc trai và lõm giữa có đường kính từ 2 đến 5 mm do virut molluscum gây nên, một loại virut... đọc thêm .Bệnh nhân bị viêm da cơ địa cũng có nguy cơ cao bị phản ứng dị ứng do tiếp xúc. Ví dụ, dị ứng do tiếp xúc với niken, chất gây dị ứng do tiếp xúc phổ biến nhất, phổ biến gấp đôi so với bệnh nhân không có cơ địa dị ứng. Việc sử dụng thường xuyên các sản phẩm bôi ngoài da khiến bệnh nhân tiếp xúc với nhiều chất gây dị ứng tiềm ẩn và viêm da tiếp xúc dị ứng do các sản phẩm này gây ra có thể làm phức tạp quá trình điều trị viêm da cơ địa. Đánh giá lâm sàng Bệnh da nhạy cảm ánh sángCác bệnh suy giảm miễn dịchĐỏ da toàn thân của các nguyên nhân khácMặc dù tiền sử cá nhân và/hoặc gia đình bị dị ứng và sự phân bố của các tổn thương rất hữu ích trong việc chẩn đoán bệnh viêm da cơ địa, các kiểu phân bố sau đây có thể giúp phân biệt bệnh này Bệnh vẩy nến thường dễ nhận biết bởi các mảng ban đỏ, dày và có vẩy có gianh giới rõ ràng. Nó thường là ở mặt duỗi hơn là ở mặt gấp và có thể bao gồm các dấu hiệu điển hình ở móng tay không phổ biến trong viêm da cơ địa ví dụ đốm dầu, . thường ảnh hưởng nhất ở mặt ví dụ các nếp nhăn hai bên mũi và má, lông mày, vùng trán giữa hai lông mày, da đầu.Viêm da đồng xu không bị ở mặt gấp, ít lichen hóa. Tuy nhiên, có thể xuất hiện trong viêm da cơ địa [viêm da cơ địa thể đồng tiền].Chứng đỏ da do viêm da cơ địa có thể khó phân biệt với chứng đỏ da do các rối loạn khác ở da. Không có xét nghiệm nào chẩn đoán xác định viêm da cơ địa. Tuy nhiên, xét nghiệm dị ứng loại I chích, cào xước và xét nghiệm trong da hoặc đo nồng độ IgE đặc hiệu với chất gây dị ứng và nồng độ IgE toàn phần có thể giúp xác nhận tạng dị ứng. Việc nuôi cấy S. aureus không được thực hiện thường xuyên nhưng có thể giúp xác định mức độ nhạy cảm với kháng sinh toàn thân khi nghi ngờ có bệnh chốc lở ví dụ, với các lớp vẩy hơi vàng. 1. Eichenfield LF, Tom WL, Chamlin SL, et al Guidelines of care for the management of atopic dermatitis Section 1. Diagnosis and assessment of atopic dermatitis. J Am Acad Dermatol 702338–351, 2014 doi Chăm sóc hỗ trợ bao gồm tư vấn về cách chăm sóc da phù hợp và tránh các yếu tố gây kích thíchChống ngứaCorticosteroid tại chỗCác thuốc ức chế calcineurin bôi tại chỗCrisaborole bôi tại chỗThuốc ức chế Janus kinase JAK dạng bôi ví dụ ruxolitinibQuang trị liệu, đặc biệt là tia cực tím dải hẹp BThuốc ức chế miễn dịch toàn thânThuốc sinh học đường toàn thânĐiều trị bội nhiễmĐiều trị viêm da cơ địa hiệu quả nhất khi giải quyết các quá trình sinh lý bệnh tiềm ẩn. Tư vấn về cách chăm sóc da phù hợp và tránh các tác nhân gây khởi phát giúp bệnh nhân giải quyết các khiếm khuyết bên dưới của hàng rào da. Gãi các tổn thương ngứa thường làm tăng ngứa và do đó gãi nhiều hơn. Phá vỡ chu kỳ ngứa-gãi có vai trò quan trọng. Các đợt bùng phát viêm có thể được hạn chế bằng thuốc ức chế miễn dịch tại chỗ, đèn chiếu, và nếu cần, thuốc ức chế miễn dịch toàn thân. Hầu hết tất cả các bệnh nhân bị viêm da cơ địa đều có thể điều trị ngoại trú, nhưng những bệnh nhân bị bội nhiễm nặng hoặc có chứng đỏ da có thể phải nhập viện. Chăm sóc da toàn thân nên tập trung vào các nguồn gây kích ứng da phổ biến nhất – rửa quá nhiều cũng như dùng xà phòng mạnh Hạn chế tần suất và thời gian tắm rửa chỉ nên dùng vòi hoa sen/bồn tắm một lần mỗi ngày; có thể thay bồn tắm bằng bọt biển để giảm số ngày tắm toàn thân Giới hạn nhiệt độ nước tắm ở mức âm ấmTránh chà xát quá mạnh và thay vào đó vỗ nhẹ cho da khô sau khi tắm sen/tắm bồnBôi kem dưỡng ẩm thuốc mỡ hoặc kem – các sản phẩm có chứa ceramide đặc biệt hiệu quảĐối với bội nhiễm da ví dụ, khi đóng vẩy màu vàng gợi ý bệnh chốc lở, tắm bằng thuốc tẩy pha loãngThuốc kháng histamine dạng uống có thể giúp làm giảm ngứa qua tác dụng an thần. Các lựa chọn bao gồm hydroxyzine uống 25 mg 3 lần/ngày hoặc 4 lần một ngày trẻ em 0,5 mg/kg mỗi 6 giờ hoặc 2 mg/kg một lần khi đi ngủ và diphenhydramine ví dụ 25 đến 50 mg, tốt nhất là trước khi đi ngủ để tránh tác dụng an thần trong ngày. Thuốc kháng histamine an thần mức thấp hoặc không gây khó chịu, chẳng hạn như loratadine 10 mg một lần/ngày, fexofenadine 60 mg 2 lần/ngày hoặc 180 mg một lần/ngày, hoặc cetirizine 5 đến 10 mg một lần/ngày, có thể hữu ích, nhưng hiệu quả của thuốc vẫn chưa được xác định. Doxepin thuốc chống trầm cảm ba vòng cũng có tác dụng ngăn chặn thụ thể H1 và H2 25 đến 50 mg uống vào giờ đi ngủ cũng có thể giúp ích, nhưng việc sử dụng nó không được khuyến cáo cho trẻ em < 12 căng thẳng cảm xúc rất có lợi và giúp phá vỡ chu kỳ ngứa gãi. Căng thẳng có thể ảnh hưởng đến gia đình ví dụ, bị một đứa trẻ đang khóc đánh thức cũng như bệnh nhân ví dụ, không thể ngủ được vì ngứa. Thay đổi chế độ ăn nhằm loại bỏ tiếp xúc với thực phẩm gây dị ứng nói chung là không cần thiết, không hiệu quả và làm tăng căng thẳng một cách không cần thiết. Viêm da cơ địa do dị ứng thực phẩm chỉ rất hiếm khi xảy tay nên được cắt ngắn để tránh gãi và nhiễm trùng thứ phát. Các corticosteroid tại chỗ là lựa chọn chính trong điều trị. Kem hoặc thuốc mỡ dùng 2 lần/ngày có hiệu quả đối với hầu hết các bệnh nhân có mức độ bệnh nhẹ hoặc vừa. Corticosteroid có hiệu lực mức thấp đến trung bình thường kiểm soát tình trạng viêm da, nhưng để giải quyết tình trạng da bị viêm mạn tính, da bị lichen hóa thường cần phải dùng corticosteroid hiệu lực cao. Các tác dụng bất lợi trên da của corticosteroid tại chỗ, chẳng hạn như mỏng da, rạn da và nhiễm trùng da, có thể xảy ra tùy thuộc vào hiệu lực của corticosteroid được sử dụng, thời gian sử dụng và vị trí da được sử dụng. Cần tránh sử dụng rộng rãi, kéo dài corticosteroid có hiệu lực cao, đặc biệt ở trẻ sơ sinh, để tránh ức chế tuyến thượng thận. Nên ngừng sử dụng corticosteroid khi tình trạng viêm da đã được kiểm soát và tuyệt đối không được sử dụng corticosteroid để ngăn ngừa bệnh tái phát. Corticosteroid toàn thân thường giúp giảm đau khẩn cấp tốt, nhưng nên tránh sử dụng lâu dài do nhiều tác dụng phụ của thuốc này. Do viêm da cơ địa có xu hướng bùng phát khi ngừng sử dụng corticosteroid toàn thân, các phương pháp điều trị khác thường cần đến để kiểm soát việc cắt giảm và ngừng sử dụng corticosteroid toàn thân. Tacrolimus và pimecrolimus dạng bôi là những thuốc ức chế calcineurin. Các thuốc này là thuốc ức chế tế bào T và có thể được sử dụng cho viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình hoặc khi các tác dụng phụ của corticosteroid là một vấn đề đáng lo ngại. Mỡ tacrolimus hoặc kem pimecrolimus được sử dụng 2 lần/ngày. Bỏng rát hoặc châm chích sau khi bôi thuốc là thoáng qua và giảm sau vài ngày. Bốc hỏa ít gặp. Crisaborole là một loại thuốc ức chế phosphodiesterase-4 dạng bôi. Thuốc mỡ Crisaborole 2% có thể được sử dụng cho bệnh viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình trên bệnh nhân từ 2 tuổi trở lên. Bôi crisaborole ở các vùng eczema 2 lần/ngày. Không thể sử dụng trên lông mi Không thể sử dụng trên lông mi Bỏng rát hoặc châm chích sau khi bôi thuốc là thoáng qua và giảm sau vài ngày. Ruxolitinib là một loại thuốc ức chế Janus kinase JAK. Ruxolitinib dạng kem 1,5% có thể được sử dụng để điều trị trong thời gian ngắn và không liên tục cho bệnh viêm da cơ địa từ nhẹ đến trung bình trên bệnh nhân có khả năng miễn dịch, từ 12 tuổi trở lên, không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các liệu pháp điều trị tại chỗ theo đơn khác hoặc khi không nên sử dụng các liệu pháp đó. Bôi ruxolitinib dưới dạng một lớp mỏng lên tới 20% diện tích bề mặt cơ thể, 2 lần/ngày trong tối đa 8 tuần. Liệu pháp quang trị liệu với tia cực tím B UVB dải hẹp rất hữu ích đối với viêm da cơ địa trên diện rộng, đặc biệt khi việc chăm sóc da và điều trị tại chỗ thích hợp không kiểm soát được tình trạng viêm. Bởi vì UVB dải hẹp có hiệu quả cao hơn nhiều so với UVB dải rộng được sử dụng trước đây, liệu pháp psoralen cộng với UVA PUVA hiếm khi được sử dụng nữa. Liệu pháp quang trị liệu với UVB dải hẹp đã không được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư da, nhưng điều này vẫn còn là mối lo ngại, đặc biệt khi sử dụng cho trẻ em hoặc trong thời gian dài. Nguy cơ này cần được cân nhắc với nguy cơ của các phương pháp điều trị toàn thân khác sau khi thất bại trong việc chăm sóc da và điều trị tại chỗ thích hợp. Nếu không có sẵn đèn chiếu tại phòng mạch hoặc quá bất tiện, thì đèn chiếu tại nhà là một giải pháp thay thế hiệu quả. Một số thiết bị đèn chiếu tại nhà có các tính năng có thể lập trình cho phép các chuyên gia giới hạn và giám sát việc sử dụng thiết bị của bệnh nhân. Phơi nắng tự nhiên là một giải pháp thay thế khi không có phương pháp chiếu đèn. Thuốc ức chế miễn dịch toàn thân, chẳng hạn như cyclosporine, mycophenolate, methotrexate và azathioprine, ức chế chức năng tế bào T. Những loại thuốc này được chỉ định cho bệnh viêm da cơ địa lan rộng, khó chữa hoặc gây tàn tật mà không giảm bớt bằng liệu pháp bôi ngoài da và liệu pháp quang học. Việc sử dụng chúng phải được cân bằng với nguy cơ tác dụng phụ, đặc biệt là khi sử dụng lâu và abrocitinib là thuốc ức chế miễn dịch đường toàn thân mới nhất để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng trên bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên, không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các thuốc đường toàn thân khác, bao gồm cả thuốc sinh học hoặc khi không nên sử dụng các liệu pháp đó. Cả hai đều ức chế JAK 1. Nguy cơ bao gồm nhiễm trùng nghiêm trọng, tử vong, ung thư, biến cố tim mạch và huyết khối. Hai thuốc ức chế miễn dịch đường toàn thân nhắm mục tiêu sinh học hiện có để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến là một kháng thể IgG4 đơn dòng hoàn toàn của con người ngăn chặn tín hiệu của IL-4 và IL-13, cả hai cytokine tiền viêm, trong viêm da cơ địa. Thuốc có sẵn để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng ở bệnh nhân từ 6 tuổi trở lên và được khuyên dùng cho những bệnh nhân không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các phương pháp điều trị khác. Dupilumab được tiêm dưới da với liều tấn công 600 mg, tiếp theo là 300 mg, 2 tuần một lần; đối với bệnh nhân cân nặng < 60 kg, liều tấn công 400 mg, sau đó là 200 mg, hai tuần một lần. Các tác dụng bất lợi phổ biến nhất là phản ứng tại chỗ tiêm, viêm kết mạc, viêm bờ mi, viêm giác mạc, ngứa mắt, herpes miệng, các bệnh nhiễm trùng khác do vi rút herpes simplex, khô mắt và tăng bạch cầu ái là một kháng thể đơn dòng hoàn toàn của người chống lại các thụ thể IL-13 alpha 1 và alpha 2. Thuốc có sẵn để điều trị viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng ở người lớn không kiểm soát bệnh hoàn toàn bằng các liệu pháp tại được tiêm dưới da với liều tấn công 600 mg, sau đó là 300 mg hai tuần một tác dụng bất lợi phổ biến nhất là nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm kết mạc, phản ứng tại chỗ tiêm và tăng bạch cầu ái toan. Doxycycline hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole là lựa chọn ban đầu hiệu quả cho loại kháng sinh đường toàn thân vì MRSA thường nhạy cảm nhất với những loại kháng sinh này. Tuy nhiên, nên nuôi cấy vi khuẩn kèm theo kiểm tra kháng thuốc trước khi bắt đầu dùng kháng sinh toàn thân vì không thể dự đoán được tình trạng kháng thuốc. Mupirocin nhỏ mũi được khuyến cáo cho những bệnh nhân mang vi khuẩn Staphylococcus aureus trong mũi, một nguồn tiềm ẩn của bệnh chốc lở tái dạng herpes được điều trị bằng thuốc kháng vi rút đường toàn thân ví dụ acyclovir, valacyclovir. Liều lượng của acyclovir là 10 đến 20 mg/kg đường tĩnh mạch, 8 giờ một lần ở trẻ sơ sinh; trẻ lớn hơn và người lớn bị bệnh nhẹ có thể dùng 200 mg uống x 5 lần/ngày. Thương tổn mắt được coi là một tình trạng cấp cứu về nhãn khoa, nếu nghi ngờ bị, cần phải tư vấn nhãn khoa. Viêm da dị ứng ở trẻ em thường giảm sau 5 tuổi, mặc dù bệnh nặng thường xảy ra ở trẻ vị thành niên và ở độ tuổi trưởng thành. Trẻ em gái và bệnh nhân mắc bệnh nặng, khởi phát sớm, tiền sử gia đình, bị viêm mũi dị ứng hoặc hen suyễn kèm theo có nhiều khả năng bị bệnh kéo dài. Ngay cả ở những bệnh nhân này, viêm da cơ địa thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thành. Viêm da cơ địa có thể để lại di chứng tâm lý lâu dài khi trẻ em phải đối mặt với những thách thức khi sống chung với căn bệnh da liễu có thể nhìn thấy, đôi khi gây tàn tật trong những năm trưởng thành của trẻ. Viêm da cơ địa là phổ biến, đặc biệt ở các nước phát triển, ảnh hưởng đến 20% số trẻ em và 10% số người lớn. Một khiếm khuyết hàng rào da được xác định về mặt di truyền dẫn đến tình trạng viêm nhiễm do các chất gây kích ứng da và do đó là viêm da cơ tác nhân gây kích hoạt phổ biến bao gồm rửa và tắm quá dấu hiệu phổ biến thay đổi theo độ tuổi và bao gồm các mảng và đám ban đỏ có vẩy, ngứa và lichen hóa ở hố trước khuỷu hố khoeo và trên mí mắt, cổ và cổ nhiễm đặc biệt nhiễm S. aureus, eczema herpeticum là phổ da cơ địa thường khỏi hoặc giảm đáng kể ở tuổi trưởng thuốc điều trị bậc một gồm chất làm ẩm, corticosteroid tại chỗ, và thuốc kháng histamine nếu cần để giảm với bệnh không đáp ứng với điều trị tại chỗ, hãy xem xét liệu pháp quang trị liệu hoặc thuốc ức chế miễn dịch toàn thân. Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.

bệnh viêm đa cơ