Định nghĩa "Lạc Trôi" "Lạc trôi" có nghĩa là trôi nổi trên mặt nước mà không biết đi về đâu,mục đích là gì.Chỉ cuộc sống trôi nổi không rõ đích đến.Ngoài ra,nó còn là tên một bài hát của Sơn Tùng.|lost
Với Đạt thì ngày 20.10 không quá đặc biệt vì anh nghĩ ngày nào cũng là ngày dành cho phụ nữ. Một số nam giới cho biết phụ nữ cần được tặng những món quà trong ngày 20.10. SHUTTERSTOCK. "Thỉnh thoảng tôi vẫn hay tặng quà cho phụ nữ. Có lúc thì tặng hoa, có lúc thì tặng
a. Mạch lạc trong văn bản là tuần tự đi khắp các phần, các đoạn trong văn bản; thông suốt, liên tục , không đứt đoạn. b. Trong văn bản, mạch lạc là sự tiếp nối của các câu, các ý theo một trình tự hợp lí. Vì các câu, các ý xoay quanh một chủ đề, một ý chung. 2.
lạc điệu là gì?, lạc điệu được viết tắt của từ nào và định nghĩa như thế nào?, Ở đây bạn tìm thấy lạc điệu có 1 định nghĩa,. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa khác về của mình
an lạc. Một phường thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam. | Một thị trấn thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. | Tên gọi các xã thuộc huyện Hạ L [..] Nguồn: vi.wiktionary.org.
Vay Tiền Nhanh. lạc Arachis hypogaea; tk. đậu phụng, đậu phộng, đậu nụ, cây thảo hằng năm, họ Đậu Fabaceae. Thân phân nhánh từ gốc, có các cành tản ra, đâm rễ ở các mấu. Lá kép hình lông chim, 4 lá chét mọc đối, hình trái xoan ngược, 2 lá kép hình dải nhọn bao quanh thân. Hoa mọc thành chùm ở nách lá, gồm 2 - 4 hoa nhỏ màu vàng. Hoa tự thụ phấn đâm xuống thành quả củ hình trụ thuôn, thon lại giữa các hạt, vỏ quả cứng, có gân mạng, mỗi quả có 1 - 3 hạt hình trứng, có vỏ lụa màu đỏ, cánh sen hay vàng, trắng, vv. L có rễ con phát triển mạnh ở đất nhẹ, tơi xốp; rễ có vi khuẩn nốt sần Rhizobium vignae cộng sinh, đặc biệt khi L ra hoa. L là cây công nghiệp ngắn ngày ở vùng nhiệt đới, thường được phân thành 2 nhóm với nhiều giống. 1 Nhóm Virginia; cây có dạng bụi, chu kì sinh trưởng dài 110 - 160 ngày. Các dạng L bò, L 5 - 6 tháng thuộc nhóm này. 2 Nhóm phân cành liên tục, cây đứng, thời gian sinh trưởng dài 85 - 110 ngày ở nhiệt đới và xích đạo, gồm 2 dòng a Spanish, thân cao ngang cành, lóng ngắn, dạng cây đứng, ít nghiêng ngả; lá chét bé, màu xanh đậm. b Valencia, thân cao hơn cành, thân có màu tím nhạt; quả thường có 2 - 3 hoặc 4 hạt. Ở Việt Nam, các giống L phổ biến thuộc các dòng Spanish, đều là giống ngắn ngày, ra củ tập trung; hạt không ngủ nghỉ, một năm trồng được hai vụ xuân - hè, thu, trồng được trên nhiều vùng đất khác nhau trung du Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Hạt chứa dầu, dầu ép từ hạt dùng làm dầu thực phẩm, nguyên liệu chế xà phòng, làm dung môi pha chế thuốc tan trong dầu, làm tá dược trong bào chế các dạng thuốc thuốc tiêm dầu long não, dầu vitamin A, D, thuốc mỡ, thuốc bôi, vv.. Hạt L là loại thực phẩm dễ bị mốc; nếu không bảo quản cẩn thận nấm mốc Aspergillus flavus xâm nhập và phát triển, tiết độc tố aflatoxin. Đã xác định được các tip aflatoxin B1, B2, G1, G2, M1 có trong L mốc. L mốc phải loại bỏ, không dùng. Khô dầu L dùng làm thức ăn chăn nuôi. - 1 d. Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầu. Lạc rang. Dầu 2 d. ph.; id.. Nhạc 3 đg. 1 Không theo được đúng đường, đúng hướng phải đi. Đi lạc trong rừng. Lạc đường. Đánh lạc hướng. 2 Ở trạng thái lìa ra khỏi mà không tìm được đường về lại. Con lạc mẹ. Chim lạc đàn. Bộ đội lạc đơn vị. 3 Bị mất đi có thể chỉ là tạm thời, vì ở đâu đó mà tìm không thấy. Lạc đâu mất hai cuốn sách. Bà mẹ lạc con. 4 Giọng nói, mắt nhìn trở thành khác hẳn đi, không bình thường, do bị kích động hoặc quá xúc động. Cảm động quá giọng lạc hẳn đi. Mắt lạc đi vì căm Đậu phụng phộng. Dầu lạc. Lạc 1. Không theo đúng đường, đúng hướng phải đi. Đi lạc trong rừng. Đánh lạc hướng. Tìm trẻ lac. 2. Ra khỏi mà không tìm lại được. Chim lạc đàn. Con lạc mẹ. 3. Để mất đi vì chưa tìm được. Lạc đâu mất cuốn mẹ lạc con. 4. Giọng nói, cách nhìn đổi khác vì quá xúc động. Cảm động quá, giọng lạc hẳn đi. Mắt lạc đi vì tức giận.
Ý nghĩa tên Lạc "Lạc" theo nghĩa Hán - Việt là yên vui, thoải mái, lạc quan yêu đời. Tên "Lạc" để chỉ người luôn biết suy nghĩ theo hướng tích cực, sống vui tươi, không nặng ưu phiền, tâm hồn trong sáng lạc quan Thường được dùng cho Nam Giới Tên trong ngũ hành Thổ Nhóm tênTrong sáng. Vui tươi. Lạc quan. Tâm hồn. Yêu đời. Tên thường thấy An Lạc. Băng Lạc. Bích Lạc. Gia Lạc. Hồng Lạc. Khang Lạc. Minh Lạc. Mỹ Lạc. Nhân Lạc. Nhiên Lạc Chi tiết Lạc trong từ điển tiếng việt Danh từ N Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầuBóc vỏ lạc kẹo lạc Động từ V Không theo được đúng đường, đúng hướng phải điBị lạc đường đánh lạc hướng nói lạc sang chuyện khác Động từ V Bị tách lìa ra khỏi mà không tìm được đường về lạiCon lạc mẹ chúng tôi lạc đơn vị hai tháng Động từ V Bị mất đi, vì ở đâu đó mà chưa tìm thấyMẹ lạc con lạc đâu mất quyển sách Động từ V [giọng nói, mắt nhìn] trở thành khác hẳn đi, không bình thường, do bị kích động hoặc quá xúc độngVí dụ Giọng cô lạc hẳn đi Tên Lạc PHẢN HỒI ĐANG LẤY DỮ LIỆU BỊ LỖI ĐÃ HẾT Đệm Lạc PHẢN HỒI ĐANG LẤY DỮ LIỆU BỊ LỖI ĐÃ HẾT
Dưới đây là những mẫu câu có chứa từ "lạc", trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt. Chúng ta có thể tham khảo những mẫu câu này để đặt câu trong tình huống cần đặt câu với từ lạc, hoặc tham khảo ngữ cảnh sử dụng từ lạc trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt 1. Thành phố Hạt Lạc Thần thất lạc = 2. Rồi con nít đi lạc, chó lạc... 3. Lạc lối? 4. Lạc lối. 5. Đứt liên lạc. 6. Giữ liên lạc. 7. Cực lạc zh. 8. " Elliot đi lạc. " 9. Người lạc quan. 10. Lỗi liên lạc 11. Họ lạc nhau. 12. Kẻ lạc lối cùng kẻ dẫn đưa lạc lối thuộc về ngài; 13. Câu lạc bộ tách ra làm hai vào năm 1900 Câu lạc bộ bóng đá Madrid mới và Câu lạc bộ Madrid. 14. An Lạc Tây. 15. Chôm bò lạc? 16. Minh họa con cừu lạc, đồng bạc bị mất, con trai lầm lạc 17. Chúng con vẫn luôn sai lầm và lạc lối như chiên đi lạc. 18. Cháu bị lạc. 19. Người Việt có nguồn cội Lạc Hồng Lạc Long Quân và Âu Cơ. 20. Câu lạc bộ là thành phần của câu lạc bộ thể thao Spartak Moskva. 21. Một đám lạc loài. 22. Anh lầm lạc rồi 23. Có cho lạc không? 24. □ Cảm giác lạc loài. 25. Lạc hướng chút thôi. 26. Thật là trụy lạc! 27. Lạc đà hai bướu. 28. Cháu bị lạc à? 29. Đã khoái lạc chưa? 30. Con lạc lối rồi. 31. Trụy lạc bẩn thỉu! 32. Nhưng tôi lạc đề. 33. Liên lạc với ai? 34. Chính là "lạc lõng". 35. Ông đi lạc hả? 36. Đánh lạc hướng à? 37. Thánh thư thất lạc 38. Làm tôi lạc lối. 39. Em hát lạc giọng. 40. Cứ hoan lạc đi. 41. Cháu muốn hạt lạc? 42. Bộ lạc Bóng ma! 43. Cô đi lạc à? 44. Liên lạc với GCHQ. 45. Ngươi lạc đường sao? 46. Tâm hồn lầm lạc. 47. Hãy nhớ... Khoái lạc? 48. Thế giới Cực Lạc. 49. Nhai đạo An Lạc. 50. Ẩm thực truyền thống miền bắc Chile cũng bao gồm việc sử dụng thịt lạc đà như lạc đà không bướu và lạc đà Alpaca.
lệch lạc- Nh. Lệch ý nghĩ lệch lạc; Mũ đội lệch vi vi phạm các tiêu chuẩn ứng xử và đạo đức của nhóm hay của xã hội. Trên cơ sở của định nghĩa xã hội học, tất cả mọi người lúc này hay lúc khác đều có thể có hành vi LL, vi phạm các chuẩn mực chung của xã hội trong một hoàn cảnh nào đó. LL bao hàm sự vi phạm các chuẩn mực của nhóm vốn có hay chưa được ghi chính thức trong luật pháp. Một quan chức ăn hối lộ hay một học sinh trốn học, thậm chí, không ngồi đúng chỗ quy định, đều là có hành vi LL, và vi phạm chuẩn mực của xã hội. Tiêu chuẩn của sự LL thay đổi từ nhóm người này sang nhóm người khác và ở từng điểm khác nhau. LL cũng chỉ là vấn đề tương đối tuỳ theo chỗ đứng của từng nhóm xã hội. Vd. công nhân bãi công, biểu tình chống chủ nghĩa tư bản là sự LL đối với chính quyền tư sản nhưng lại mang ý nghĩa tích cực đối với lập trường đấu tranh giai cấp, đòi quyền lợi của giai cấp công nhân. Hành động LL là đối tượng của những sự trừng phạt chính thức và không chính thức của sự kiểm soát xã hội. Người không tuân thủ các chuẩn mực xã hội có thể bị chê bai, không được mọi người đồng tình, mất bạn bè hoặc thậm chí bị truy tố, bỏ tù tuỳ theo mức độ gây hại của hành vi LL đối với cá nhân, nhóm hay toàn xã hội. nt& Không ngay ngắn, không cân. Tranh treo lệch lạc. 2. Không đúng, sai chỗ, sai hướng. Nhận thức lệch lạc. Tư tưởng lệch lạc.
An lạc là gì? An là sự an định của nội tâm. Lạc là hạnh phúc, vui vẻ. Như thế, An Lạc là niềm hạnh phúc được lưu xuất từ sự an định của nội tâm. An Lạc chỉ xuất hiện khi tâm ta ở trong trạng thái tịch tĩnh Bên trong không còn bị câu thúc bởi tham sân si, bên ngoài không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, sắc trần. An Lạc khác với Vui vẻ ở hai điều căn bản Vui vẻ đến từ bên ngoài còn An lạc đến từ bên trong. Vui vẻ chỉ là một trạng thái nhất thời còn An lạc, do đến từ tuệ giác, nên một khi đạt được thì nó là vĩnh viễn. Bởi được lưu xuất từ nội tâm nên An Lạc chỉ có thể có được thông qua tu tập. Chúng ta không thể mong, cũng không thể cầu mà có được được. An lạc xuất từ tâm nhưng có công năng chiêu cảm ra bên ngoài. Đây chính là lý do tại sao khi gần gũi bậc chân tu, ta luôn thấy tâm mình thanh thoát, vui vẻ. Những người có nhân duyên gặp được Ngài Hư Vân, hay Ngài Tuyên Hóa đều trải qua xúc cảm hi hữu này. Ngay như ở Việt Nam ta, nếu duyên gặp các bậc chân tu, bạn cũng sẽ được kinh qua cái xúc cảm lạ lùng ấy. Làm thế nào để biết ai là bậc Chân tu Từ Bi là gì. Trí Huệ là gì. Niết bàn là gì. Cách tụng kinh cho người mới mất Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh Phật đảnh tôn thắng Đà La Ni. An Lạc là gì Tu đúng sẽ đến được An Lạc Bước đầu tiên trên hành trình học Phật của ta là diệt trừ khổ đau, để thân tâm an lạc. Sự an lạc này được hiện diện ngay trong hiện tại, chớ chẳng phải ở một cõi giới xa xôi nào đó. “Chúng ta đi chùa, lạy Phật và học đạo cốt là để có an lạc. Nhưng nhìn lại nếu thấy bản thân mình chưa có an lạc, gia đình chưa có an lạc thì hoặc là mình tu chưa rốt ráo; hoặc là cái học và tu của mình chưa đúng Chánh pháp. Nếu hành giả thực hành đúng Chánh pháp thì chắc chắn sẽ có an lạc. Nếu chưa được trọn vẹn thì ít ra cũng có an lạc từng phần. Bởi vì những lời dạy của đức Phật là chân thật, đúng theo chân lý nghĩa là sự thật như thế nào thì Ngài nói như thế ấy. Lời nói của Phật nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người chớ không bao giờ lợi mình hại người khác. Lời nói của Phật trước sau như một luôn nhắc nhở tất cả chúng sinh đi trên con đường giải thoát giác ngộ phải tinh tấn đạt đến cứu cánh tối thượng là trí tuệ Bồ Đề và sau cùng lời dạy của Phật là chân chính, không bao giờ hư vạy. Tiến trình giải thoát để có an lạc là Giới Định Tuệ. Vì thế người nào giữ Giới nghiêm minh thì chắc chắn họ sẽ có an vui tự tại. Giữ một phần Giới thì có một phần an lạc và cứ như thế mà tiến tu.” Lê Sỹ Minh Tùng Giữ giới là bước đầu tiên trên hành trình đến An Lạc Giới luật trong Phật giáo có một giá trị tuyệt đối cho người hành đạo. Bởi vì người giữ giới trong sạch, y theo giới luật tu hành thì tâm mới định và từ đó trí tuệ sẽ phát sinh. Vì vậy có giữ Giới nghiêm minh mới giữ được Phật tâm. Đối với Phật giáo, giới và hạnh không phải chỉ để giữ mà để tu bởi vì giới là pháp môn tu học chớ không phải là tín điều bắt buộc tín đồ phải giữ. Vì vậy tu giới là thực hành ly dục, ly ác pháp để tâm dần đến chỗ thanh tịnh trong khi giữ giới chỉ có tác dụng tiêu cực cho nên ái dục không giảm, không diệt mất. Lại giới khiến chúng ta ngăn mình nghĩ ác, làm ác. Tâm không làm ác, thân không làm ác thì tham sân si không có đất để sanh khởi. Mà tam độc không sanh khởi ắt thân tâm được an tịnh. Do đó giữ giới là bước đầu tiên trên hành trình đến an lạc vậy! Thí dụ một người có thể giữ giới trường chay, nhưng lòng vẫn còn tham ăn, tham mặc…thì ái dục khó dứt nên không có an tịnh. Ngược lại, một người tu giới là họ luôn kiểm soát thân, khẩu, ý và luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm. Do có chánh niệm nên nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau không còn. Bởi phiền não không còn cho nên họ sống trong an lạc, tự tại. Bốn Hạnh An Lạc Bốn Hạnh An Lạc được đức Thế Tôn thuyết trong kinh Pháp Hoa. Hòa Thượng Trí Tịnh bảo “Ngài Văn Thù cho rằng “Dầu dùng nhẫn lực để trì kinh cũng đã hay. Tuy nhiên việc ấy không bằng làm thế nào để cho khỏi có xảy ra những điều hoạn nạn, khó khăn. Bởi vậy nên ngài bèn thưa thỉnh cùng đức Thế Tôn. ức Thế Tôn liền nói bốn hạnh an lạc. Các vị pháp sư trì kinh Pháp Hoa ở đời ác sau, nếu có đủ bốn hạnh này thời có thể vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa. Bốn hạnh này giúp khỏi các chướng nạn, thường thường được an vui. Bốn hạnh an lạc là Hành xứ và Thân cận xứ Chỗ sở hành và chỗ thân cận của Bồ tát phải thường tương ưng với tánh giới. Bề trong thời an trụ nơi đệ nhứt nghĩa thật tướng; bề ngoài thời xa những mầm nạn những ác hạnh, tránh tất cả những điều cơ hiểm. Tương ưng tánh giới; an trụ thật tướng thời tâm an, xa tránh ác hạnh, cơ hiểm, mầm nạn thời thân an. Thân và tâm an thời vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa tất khỏi bị chướng ngại. Cũng có vị Cổ đức cho rằng, hành xứ cùng thân cận xứ là thân nghiệp an lạc hạnh. Lấy ý mà suy thời cùng với nghĩa trên vẫn cũng tương đồng. Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp và khéo nói pháp Tức là làm cho mọi người đều hoan hỉ, thời khỏi chướng nạn mà được an vui. Đây chính là khẩu nghiệp an lạc hạnh vậy. * Dứt trừ những tánh đê hèn, như dua dối, ghét ganh Tức là nơi tâm xa rời tất cả phiền não cấu trược; kính trọng người trên, không khinh kẻ dưới. Được như thế thời không làm bức xúc tâm mọi người, khỏi những điều oán hận mà tự mình được an vui. ây thuộc về ý nghiệp an lạc hạnh. Bồ tát ở đời sau phải sanh lòng từ bi thệ độ tất cả. Như thế thời không xa bỏ chúng sanh thường nguyện giáo hóa, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chán. ây tức là thệ nguyện an lạc hạnh vậy. ủ bốn hạnh trên đây thời là đủ sức thủ hộ giảng thuyết kinh Pháp Hoa ở đời ác trược vị lai. Nhờ đó mà tránh khỏi chướng nạn, được an ổn vui vẻ. Bốn hạnh này là phép tắc của đức Thế Tôn truyền dạy để giữ gìn gia nghiệp vĩ đại của đấng cứu thế. Tất cả luật hạnh oai nghi đều gồm nhiếp trong 4 hạnh này. Người xuất gia trong đời mạt pháp, nếu có thể giữ hạnh này hoàn toàn, thời có thể gọi là chẳng phụ ân sâu của ức Thế Tôn vậy. Bạn thân mến! Để hiểu sâu hơn về An Lạc Hạnh, bạn hãy ngồi ngay ngắn, giữ thân tâm thanh tịnh để xem Phẩm An Lạc Hạnh thứ 14, được đức Thế Tôn thuyết trong kinh Pháp Hoa. Phẩm An Lạc Hạnh Kinh Pháp Hoa Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch * Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Đại Bồ-tát bạch Phật rằng “Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ-nguyện lớn Ở nơi đời ác sau, hộ-trì đọc nói kinh Pháp-Hoa này”. Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?” Phật bảo ngài Văn-Thù Sư-Lợi “nếu vị Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an-trụ trong bốn pháp . – Một, an-trụ nơi “hành xứ” và nơi “thân-cận-xứ” của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sinh mà diễn nói kinh này. Văn Thù-Sư-Lợi! Thế nào gọi là chỗ “Hành xứ” của đại Bồ-tát? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn-nhục hòa-dịu khéo thuận mà không vụt-chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân-biệt mà quán tưởng như thực của các pháp cũng chẳng vin theo, chẳng phân-biệt, đó gọi là chỗ “hành xứ” của Bồ-tát. Thế nào gọi là chỗ “thân-cận” của đại Bồ-tát? – Vị đại Bồ tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương tử, đại-thần, quan-trưởng, chẳng gần gũi các ngoại-đạo phạm-chí, ni-kiền-tử, . . và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại-đạo cùng với phái “lộ-già-da-đà” phái “nghịch-lộ-già-da-đà”, cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung-hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na-la . . bày các cuộc chơi biến-hiện. Lại chẳng gần-gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn-bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. * Lại chẳng gần-gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh-Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh-hành, hoặc ở trong giảng-đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp không lòng mong cầu. Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là Tướng có thể sinh tư-tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái hóa, . . chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất-nam để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân-duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân-hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ-tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thuyền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là “chỗ thân-cận” ban đầu. * – Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhất-thiết, pháp không như thật tướng” chẳng điên-đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật-tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân-duyên mà có, từ điên-đảo mà sinh cho nên nói, thường ưa quán-sát pháp-tướng như thế đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của vị Đại Bồ-tát. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng * Nếu có vị Bồ-tát Ở trong đời ác sau Lòng không hề sợ-sệt Muốn nói kinh pháp này Nên trụ vào “hành-xứ” Và trụ “thân-cận-xứ”. Thường xa rời quốc-vương Và con của quốc-vương Quan đại-thần, quan lớn Kẻ chơi việc hung-hiểm Cùng bọn chiên-đà-la Hàng ngoại đạo phạm-chí Cùng chẳng ưa gần-gũi Hạng người Tăng-thượng-mạn Hàng học giả tham chấp Kinh, luật, luận tiểu-thừa Những Tỷ-khiêu phá giới Danh tự A-la-hán Và những Tỷ-khiêu-ni Ưa thích chơi giỡn cười Các vị Ưu-bà-di Tham mê năm món dục Cầu hiện-tại diệt-độ Đều chớ có gần-gũi. Nếu những hạng người đó Dùng tâm tốt mà đến Tại chỗ của Bồ-tát Để vì nghe Phật-đạo Bồ-tát thời nên dùng Lòng không chút sợ-sệt Chẳng có niệm mong cầu Mà vì chúng nói pháp. Những gái hóa, gái trinh Và các kẻ bất-nam Đều chớ có gần gũi Để cùng làm thân-hậu. Cũng chớ nên gần-gũi Kẻ đồ-tể cắt thái Săn bắn và chài lưới Vì lợi mà giết hại Bán thịt để tự sống Buôn bán sắc gái đẹp Những người như thế đó Đều chớ có gần-gũi. Các cuộc chơi giỡn dữ Hung-hiểm đâm đánh nhau Và nhưng dâm nữ thảy Trọn chớ có gần-gũi. Chớ nên riêng chỗ khuất Vì người nữ nói pháp Nếu lúc vì nói pháp Chẳng được chơi giỡn cười Khi vào xóm khất thực Phải dắt một Tỷ-khiêu Nếu không có Tỷ-khiêu Phải một lòng niệm Phật Đây thời gọi tên là “Hành-xứ” “thân-cận-xứ”. * Dùng hai xứ trên đây Có thể an-lạc nói. Lại cũng chẳng vịn theo Pháp thượng, trung và hạ Hữu-vi hay vô-vi Thực cùng pháp chẳng thực Cũng chẳng có phân-biệt Là nam là nữ thảy Lại chẳng được các pháp Chẳng biết cũng chẳng thấy Đây thời gọi tên là “Hành-xứ” của Bồ-tát. Tất cả các món pháp Đều không, chẳng chỗ có Không có chút thường-trụ Vẫn cũng không khởi diệt Đây gọi là “thân-cận” Chỗ người trí hằng nương. Chớ đảo-điên phân-biệt Các pháp có hoặc không Là thực, chẳng phải thực Là sinh chẳng phải sinh, Ở an nơi vắng-vẻ Sửa trao nhiếp tâm mình An-trụ chẳng lai độn Như thể núi Tu-Di Quán-sát tất cả pháp Thảy đều không thực có Dường như khoảng hư-không Không có chúc bền chắc. Chẳng sinh cũng chẳng xuất Chẳng động cũng chẳng thối Thường-trụ một tướng-thể Đó gọi là “cận-xứ”. Nếu có vị Tỷ-khiêu Sau khi ta diệt độ Vào được “hành-xứ” đó Thời lúc nói kinh này Không có lòng e sợ Vị Bồ-tát có lúc Vào nơi nhà tịnh-thất Lòng nghĩ nhớ chân chính Theo đúng nghĩa quán pháp. Từ trong thuyền-định dậy Vì các bậc Quốc-vương Vương-tử và quan, dân Hàng Bà-la-môn thảy Mà khai-hóa diễn-bày Rộng nói kinh điển này Tâm vị đó an-ổn Không có chút khiếp-nhược. Văn-Thù-Sư-Lợi này! Đó gọi là Bồ-tát An-trụ trong sơ-pháp Có thể ở đời sau Diễn nói kinh Pháp-Hoa. * – Lại Văn-Thù Sư-Lợi! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, ở trong đời mạt-pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an-lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh-văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen-ngợi điều tốt của người cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an-lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu-thừa đáp, chỉ dùng pháp đại-thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc “Nhất-thiết chủng-trí.”Khi ấy, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng * Vị Bồ-Tát thường ưa An-ổn nói kinh pháp Ở nơi chỗ thanh-tịnh Mà sắp đặt sàng tòa Dùng hương dầu xoa thân Tắm gội các bụi dơ Mặc y mới sạch-sẽ Trong ngoài đều sạch thơm Ngồi an nơi pháp-tòa Theo chổ hỏi vì nói. Nếu có vị Tỷ-khiêu Cùng với Tỷ-khiêu-ni Các hàng Ưu-bà-tắc Và hàng Uu-bà-di Quốc-vương và vương-tử, Các quan cùng sĩ-dân Dùng pháp nghĩa nhiệm-mầu Vui-vẻ vì họ nói Nếu có người gạn hỏi Theo đúng nghĩa mà đáp Nhân-duyên hoặc thí-dụ Giải-bày phân-biệt nói Dùng trí phương-tiện này Đều khiến kia phát tâm Lần lần thêm đông nhiều Vào ở trong Phật-đạo. Trừ lòng lười biếng trễ Cùng với tưởng giải-đãi Xa rời các ưu-não Tâm từ lành nói pháp Ngày đêm thường tuyên nói Giáo-pháp vô-thượng đạo Dùng các việc nhân-duyên Vô-lượng món thí-dụ Mở bày dạy chúng-sinh Đều khiến chúng vui mừng Y-phục cùng đồ nằm Đồ ăn uống thuốc thang Mà ở nơi trong đó Không có chỗ mong cầu Chỉ chuyên một lòng nhớ Nhân-duyên nói kinh pháp Nguyện ta thành Phật-đạo Khiến mọi người cũng vậy Đó là lợi lành lớn Là an-vui cúng dàng Sau khi ta diệt-độ Nếu có vị Tỷ-khiêu Có thể diễn nói được Kinh Diệu-Pháp-Hoa này Lòng không chút ghen hờn Không các não chướng-ngại Cũng lại không ưu-sầu Và cùng mắng nhiếc thảy Lại cũng không sợ-sệt Không dao gậy đánh đập Cũng không xua-đuổi ra Vì an-trụ nhẫn vậy Người trí khéo tu-tập Tâm mình được dường ấy Thời hay trụ an-lạc Như ta nói ở trên Công-đức của người đó Trong nghìn muôn ức kiếp Tính kể hay thí-dụ Nói chẳng thể hết được. * – Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thụ trì đọc-tụng kinh-điển này, chớ ôm lòng ghen-ghét dua-dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỷ-khiêu, Tỷ khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-Văn, hoặc cầu Duyên-giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sinh lòng nghi hối mà nói với người rằng “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất-thiết chủng-trí. Vì sao? “Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đói với đạo”. Lại cũng chẳng nên hí-luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng-sinh, khởi tưởng đại-bi, đói với các đức Như Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc đại-sư, với các Đại Bồ-tát ở mười-phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất-cả chúng-sinh đều bình- đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều. Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an-lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng thường đến nghe thụ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển cung-kính tôn trọng ngợi bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng * – Nếu muốn nói kinh này Phải bỏ lòng ghen hờn Ngạo dua-dối tà-ngụy Thường tu hạnh chất trực Chẳng nên khinh miệt người Cũng chẳng hí-luận pháp Chẳng khiến kia nghi-hối Rằng ngươi chẳng thành Phật, Phật-tử đó nói pháp Thường nhu-hòa hay nhẫn Từ-bi với tất cả Chúng-sinh lòng biếng trễ Bồ-tát lớn mười-phương Thương chúng nên hành đạo Phải sinh lòng cung-kính Đó là Đại-sư ta, Với các Phật Thế-Tôn Tưởng là cha vô-thượng, Phá nơi lòng kiêu-mạn Nói pháp không chướng-ngại Pháp thứ ba như thế Người trí phải giữ-gìn Một lòng an-lạc hạnh Vô-lượng chúng cung-kính. * – Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp-Hoa này ở trong hàng người tại-gia, xuất-gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như-Lai phương-tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô thượng chính-đẳng chính-giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí-tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt-độ nếu thành-tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm-lỗi, thường được hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc-vương, vương-tử, đại-thần nhân-dân bà-la-môn, cư-sĩ thảy cúng-dàng cung-kính tôn trọng ngợi-khen, hàng chư thiên ở trên hư-không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng-vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá khứ, vị-lai, hiện-tại giữ-gìn vậy. Văn Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở trong vô-lượng cõi nước, nhẫn đến danh-tự còn chẳng nghe được, hà huống là được thấy thụ-trì đọc tụng. * Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-luân-thánh-vương sức lực mạnh-mẽ muốn dùng uy-thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh-lệnh, bấy giờ Chuyển-luân-thánh vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y-phục trang-nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân-bảo, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-nảo, san-hô, hổ phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi-tớ, nhân dân, chỉ viên minh-châu trong búi tóc chẳng đem cho sao? Vì riêng trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến-thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũng như thế, dùng sức thuyền-định trí-tuệ được cõi nước pháp, giáo-hóa trong ba cõi mà ma-vương chẳng khứng thuận-phục, các tướng hiền thánh của Như-Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thuyền-định, giải-thoát, vô-lậu căn-lực. Và lại ban cho thành Niết-Bàn, bảo rằng được diệt-độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này. * Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh-châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như-Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp-vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo-hóa tất cả chúng-sinh. Thấy quân hiền-thánh cùng ma ngũ-ấm, ma phiền-não, ma chết, đánh nhau có công lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp-hoa này có thể khiến chúng-sinh đến bậc “nhất-thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán-ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhất của Như-Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh-châu mà nay mới cho đó. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạng bí-mật của các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ-gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng * Thường tu-hành nhẫn-nhục Thương xót tất cả chúng Mới có thể diễn nói Kinh của Phật khen ngợi. Đời mạt-thế về sau Người thụ-trì kinh này Với tại-gia, xuất-gia Và chẳng phải Bồ-tát, Nên sinh lòng từ-bi Những người đó chẳng nghe Chẳng tin kinh pháp này Thời là mất lợi lớn Khi ta chứng Phật-đạo Dùng các sức phương-tiện Vì nói kinh pháp này Làm cho trụ trong đó. Thí như vua Chuyển-Luân Thánh-vương có sức mạnh Binh tướng đánh có công Thưởng ban những đồ vật Voi, ngựa và xe-cộ Đồ trang-nghiêm nơi thân, Và những ruộng cùng nhà Xóm làng thành ấp thảy Hoặc ban cho y-phục Các món trân báu lạ Tôi-tớ cùng của cải Đều vui mừng ban cho, Nếu có người mạnh-mẽ Hay làm được việc khó Vua mới mở búi tóc Lấy minh-châu cho đó. Đức Như-Lai cũng thế Là vua trong các pháp Nhẫn-nhục sức rất lớn Tạng báu trí-tuệ sáng Dùng lòng từ-bi lớn Đúng như pháp độ-đời Thấy tất cả mọi người Chịu các điều khổ-não Muốn cầu được giải-thoát Cùng các ma đánh nhau Phật vì chúng-sinh đó Nói các món kinh pháp Dùng sức phương-tiện lớn Nói các kinh điển đó, Đã biết loài chúng-sinh Được sức mạnh kia rồi Rốt sau mới vì chúng Nói kinh Pháp-Hoa này Như vua thánh mở tóc Lấy minh-châu cho đó. * Kinh này là bậc tôn Trên hết trong các kinh Ta thường giữ-gìn luôn Chẳng vọng vì mở bày Nay chính đã phải lúc Vì các ông mà nói. Sau khi ta diệt-độ Người mong cầu Phật-đạo Muốn được trụ an-ổn Diễn nói kinh pháp này Phải nên thường gần-gũi Bốn pháp trên như thế. Người đọc tụng kinh này Thường không bị ưu-não Lại không có bệnh đau Nhan-sắc được trắng sạch Chẳng sinh nhà bần-cùng Dòng ti-tiện xấu-xa Chúng-sinh thường ưa thấy. Như ham-mộ hiền-thánh Các đồng-tử cõi trời Dùng làm kẻ sai khiến Dao gậy chẳng đến được Độc dữ chẳng hại được Nếu người muốn mắng-nhiếc Miệng thời liền ngậm bít Dạo đi không sợ-sệt Dường như sư-tử vương Trí-tuệ rất sáng-suốt Như mặt trời chói sáng. Nếu ở trong chiêm-bao Chỉ thấy những việc tốt Thấy các đức Như-Lai Ngồi trên tòa sư-tử Các hàng chúng tỷ-khiêu Vây quanh nghe nói pháp. Lại thấy các long-thần Cùng A-tu-la thảy Số như cát sông Hằng Đều cung-kính chắp tay Tự ngó thấy thân mình Mà vì chúng nói pháp. * Lại thấy các đức Phật Thân tướng thuần sắc vàng Phóng vô-lượng hào-quang Soi khắp đến tất cả Dùng giọng tiếng phạm-âm Mà diễn nói các pháp Phật vì hàng tứ-chúng Nói kinh pháp vô-thượng Thấy thân mình ở trong Chắp tay khen-ngợi Phật Nghe pháp lòng vui mừng Mà vì cúng-dàng Phật Được pháp Đà-la-ni Chứng bậc bất-thối-trí, Phật biết tâm người đó Đã sâu vào Phật-đạo Liền vì thụ-ký cho Sẽ thành tối chính-giác. Thiện-nam-tử ngươi này! Sẽ ở đời vị-lai Chứng được vô-lượng trí Nên đạo lớn của Phật, Cõi nước rất nghiêm tịnh Rộng lớn không đâu bằng Cũng có hàng tứ-chúng Chắp tay nghe nói pháp. Lại thấy thân của mình Ở trong rừng núi vắng Tu-tập các pháp lành Chứng thực-tướng các pháp Sâu vào trong thuyền-định Thấy các Phật mười-phương Các Phật thân sắc vàng Trăm phước tướng trang-nghiêm Nghe pháp vì người nói Thường có mộng tốt đó. Lại mộng làm quốc-vương Bỏ cung-điện quyến-thuộc Và ngũ-dục thượng diệu Đi đến nơi đạo-tràng Ở dưới gốc Bồ-Đề Mà ngồi tòa sư-tử Cầu đạo quá bảy ngày Được trí của các Phật Thành đạo vô-thượng rồi Dậy mà chuyển pháp-luân Vì bốn-chúng nói pháp Trải nghìn muôn ức kiếp Nói pháp mầu vô-lậu Độ vô-lượng chúng-sinh Sau sẽ vào Niết-bàn Như khói hết đèn tắt. Nếu trong đời ác sau Nói pháp bậc nhất này Người đó được lợi lớn Các công-đức như trên. ***** An Lạc là gì Tuệ Tâm 2021.
lạc lạc nghĩa là gì